Ý NGHĨA, GIÁ TRỊ CỦA HIỆP ĐỊNH GIƠNEVƠ VÀ BÀI HỌC CHO ĐỐI NGOẠI VỀ QUỐC PHÒNG, AN NINH TRONG TÌNH HÌNH MỚI
TCGCVN – Cách đây 70 năm, Hiệp định Giơ - ne - vơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam đã được ký kết, mở ra một trang mới trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước của nhân dân ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá: “Hội nghị Giơ - ne - vơ đã kết thúc. Ngoại giao ta đã thắng lợi to”. Nhân dịp kỷ niệm 70 năm ngày ký Hiệp định Geneva về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam (21/7/1954 - 21/7/2024), Tạp chí Giáo chức Việt Nam trân trọng giới thiệu bài viết của Đại tá, PGS. TS. NGƯT Nguyễn Xuân Tú, nguyên Tổng Biên tập Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị quân sự, Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng.
1. Khái quát diễn biến của Hiệp định Giơ - ne - vơ
Trước tình hình diễn biến phức tạp về việc lập lại hoà bình ở Triều Tiên và chiến sự ở Đông Dương trong năm 1953, từ ngày 25/01 đến ngày 18/2/1954, Hội nghị tứ cường gồm Anh, Pháp, Mỹ và Liên Xô khai mạc tại Béclin (Đức) đã đi đến nhất trí triệu tập Hội nghị Giơnevơ (Thụy Sĩ) để bàn giải pháp hòa bình cho Triều Tiên và đình chiến ở Đông Dương. Tuy nhiên, sau hơn hai tháng Hội nghị vẫn không triệu tập được.
Ở Đông Dương, được sự giúp sức của Mỹ, thực dân Pháp thực hiện Kế hoạch Nava nhằm xoay chuyển tình thế, giành thắng lợi quyết định về quân sự trong vòng 18 tháng, làm cơ sở thực hiện “một giải pháp chính trị thích hợp để giải quyết chiến tranh” [1, tr.93] và hy vọng tìm “lối thoát danh dự” cho nước Pháp. Tuy nhiên, Kế hoạch Nava đã sớm bị phá sản bởi những hoạt động quân sự của Quân đội nhân dân Việt Nam. Đặc biệt, ngày 13/3/1954, quân và dân Việt Nam mở Chiến dịch Điện Biên Phủ, làm cho tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của Pháp ở Đông Dương có nguy cơ bị tiêu diệt, cùng với đó sức ép từ nhân dân tiến bộ thế giới lên án cuộc chiến tranh của Pháp và can thiệp Mỹ, nên ngày 26/4/1954, Hội nghị Giơnevơ đã được triệu tập. Trong giai đoạn đầu bàn về hoà bình ở Triều Tiên kéo dài đến ngày 16/5 mà không đạt kết quả. Ngày 8/5/1954, Hội nghị bàn về đình chiến ở Đông Dương bắt đầu với sự tham gia của 9 bên, trong đó có các nước lớn và thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc là: Anh, Pháp, Mỹ, Liên Xô và Trung Quốc.
Trưởng đoàn Việt Nam DCCH Phạm Văn Đồng
và Trưởng đoàn Liên Xô V. Molotov. (Nguồn: Gettyimages)
Sau 75 ngày thương lượng, qua 8 phiên họp rộng và 23 phiên họp hẹp cùng các cuộc tiếp xúc ngoại giao đằng sau các hoạt động công khai. Dưới ảnh hưởng to lớn, trực tiếp của chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” vào chiều ngày 07/5/1954, đã tạo ra thế mạnh của ta trên bàn đàm phán, đẩy Pháp vào thế bất lợi. Ngày 21/7/1954, Pháp và các nước tham gia Hội nghị đã ký Hiệp định Giơnevơ. Hiệp định bao gồm các văn bản: Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Giơnevơ; Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam; Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Lào và Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Campuchia. Theo Hiệp định, các bên tham chiến ngừng bắn, lập lại hòa bình cho Việt Nam, Lào và Campuchia, thực hiện tập kết, chuyển quân theo khu vực và thời gian quy định. Việt Nam sẽ thống nhất đất nước bằng một cuộc tổng tuyển cử tự do vào tháng 7/1956 dưới sự kiểm soát của một Ủy ban quốc tế.
Hiệp định Giơnevơ được ký kết là một thắng lợi lớn, có ý nghĩa rất quan trọng đối với cách mạng nước ta. Trong “Lời kêu gọi sau khi Hội nghị Giơnevơ thành công” - ngày 22/7/1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Hội nghị Giơnevơ đã kết thúc. Ngoại giao ta đã thắng lợi to…Ở Hội nghị Giơnevơ… ta đã thu được thắng lợi lớn: Chính phủ Pháp đã thừa nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và lãnh thổ toàn vẹn của nước ta, thừa nhận quân đội Pháp sẽ rút khỏi nước ta, v.v..” [2, tr. 1-2]. Mặc dù 70 năm đã trôi qua, nhưng Hiệp định Giơnevơ vẫn vẹn nguyên ý nghĩa lịch sử, giá trị hiện thực và để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý cho hoạt động ngoại giao nói chung và đối ngoại quốc phòng, an ninh nói riêng trong tình hình mới hiện nay.
2. Ý nghĩa và giá trị của Hiệp định Giơnevơ
Việc ký kết Hiệp định Giơnevơ của tất cả các bên tham gia Hội nghị, đặc biệt là của các nước lớn và các thành viên thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc là sự xác nhận trên phạm vi quốc tế về thất bại hoàn toàn cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, công nhận độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Lần đầu tiên, Chính phủ Pháp và mỗi nước tham gia Hội nghị Giơnevơ cam kết tôn trọng chủ quyền, độc lập thống nhất toàn vẹn lãnh thổ, tuyệt đối không can thiệp vào công việc nội trị của Việt Nam; quân đội Pháp phải rút khỏi Việt Nam. Đây là thắng lợi lớn của quân và dân Việt Nam sau chín năm kháng chiến trường kỳ với vô vàn hy sinh nhưng vô cùng kiên cường, oanh liệt dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chống lại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, nhằm thực hiện mục tiêu giành độc lập, tự do thực sự cho dân tộc.
Hiệp định Giơnevơ được ký kết không chỉ kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chín năm chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ; chấm dứt hoàn toàn ách xâm lược của thực dân Pháp trên đất nước Việt Nam, mà còn mở ra một thời kỳ mới hết sức đặc biệt đối với cách mạng Việt Nam: Đất nước tạm thời chia làm hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội khác nhau. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, tiến hành khôi phục, phát triển kinh tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội, dần trở thành căn cứ địa cho cách mạng cả nước và là hậu phương lớn, vững chắc cho nhân dân miền Nam tiếp tục cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, lẽ ra hai miền Nam, Bắc Việt Nam sẽ có hoà bình và tiến hành hiệp thương, tổng tuyển cử thống nhất đất nước vào tháng 7/1956, nhưng do hành động chiến tranh của đế quốc Mỹ và tay sai với âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta, nên những điều khoản hết sức quan trọng trong Hiệp định không thực hiện được. Chính vì thế, cả dân tộc Việt Nam lại phải tiến hành cuộc trường chinh đầy gian khổ chống Mỹ, cứu nước trong 21 năm để thống nhất nước nhà vào mùa Xuân năm 1975.
Hiệp định Giơnevơ được ký kết là biểu hiện cho sự thành công của đường lối cách mạng, đường lối chiến tranh nhân dân “Toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh” do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi xướng, lãnh đạo. Trong kháng chiến chống Pháp và can thiệp Mỹ, bằng đường lối kháng chiến toàn dân “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không phân chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc” [3, tr.354], và kháng chiến toàn diện (về chính trị, kinh tế, văn hoá, ngoại giao và quân sự) đúng đắn, sáng tạo đã khơi dậy lòng yêu nước, phát huy ý chí quyết chiến, quyết thắng, khát vọng độc lập tự do và yêu chuộng hòa bình của toàn thể dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử. Trong đó, đã thực hiện sáng tạo đường lối đối ngoại đúng đắn “thêm bạn, bớt thù” “biết thắng từng bước” của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chính sức mạnh toàn dân, toàn diện trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam mà đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng đưa đến ký kết Hiệp định Giơnevơ mà tướng Nava - Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương trong những năm 1953-1954 đã phải thừa nhận: “Quân viễn chinh Pháp không những phải chống chọi với một đội quân chính quy mà còn phải đương đầu với cả một dân tộc” [4, tr.193].
Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Tạ Quang Bửu thay mặt Việt Nam DCCH
ký Hiệp định Geneva 1954 (Nguồn: Gettyimages)
Hiệp định Giơnevơ được ký kết tháng 7/1954 là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử ngoại giao Việt Nam khi lần đầu tiên bước lên vũ đài đàm phán đa phương với sự tham gia của các cường quốc, để bàn về các vấn đề liên quan đến quyền cơ bản của chính dân tộc mình trong bối cảnh tình hình thế giới và quan hệ quốc tế có nhiều diễn biến rất phức tạp, các nước lớn tham gia hội nghị đều theo đuổi những mục tiêu và lợi ích khác nhau, Việt Nam đã giành được thắng lợi, mang lại những quyền lợi to lớn và chính đáng cho dân tộc. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Hội nghị Giơnevơ đã kết thúc. Ngoại giao ta đã thắng lợi to…” [2, tr.1]. Ở vào thời điểm này, chính thành quả ấy trên mặt trận ngoại giao đã đem lại thế và lực mới cho nước ta trên trường quốc tế.
Việc ký kết Hiệp định Giơvevơ - kết quả của quá trình đàm phán tại Hội nghị Giơnevơ cũng đã đem lại những kinh nghiệm lịch sử quý giá cho cách mạng Việt Nam, nhất là quá trình đấu tranh ngoại giao ở Hội nghị Pari sau này (13/5/1968 - 27/1/1973). Chúng ta có kinh nghiệm hơn, chỉ đàm phán trực tiếp với Mỹ, không thông qua bất cứ nước trung gian nào; thực hiện kết hợp giữa đấu tranh quân sự, chính trị với đấu tranh ngoại giao, tạo cục diện “vừa đánh, vừa đàm”. Quá trình đấu tranh tại Hội nghị Pari, ta đã nắm chắc tương quan lực lượng, sự toan tính của các nước lớn để đánh giá đúng tình hình, từ đó đặt ra được lộ trình, mục tiêu đấu tranh phù hợp, biết thắng từng bước đúng, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn. Đặc biệt, luôn nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, kiên định nguyên tắc chiến lược, linh hoạt, mềm dẻo trong sách lược, không bị chi phối trước bất cứ thế lực nào và vững vàng hơn trước những sức ép từ các phía mà không bị quốc tế hóa, để cuối cùng đạt mục tiêu cao nhất là buộc đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh, rút toàn bộ quân Mỹ ra khỏi miền Nam, tạo điều kiện rất cơ bản để tiến lên “đánh cho ngụy nhào”.
3. Bài học cho đối ngoại về quốc phòng và an ninh trong tình hình mới
Trong bối cảnh hiện nay, tuy hòa bình, hợp tác và phát triển đang là xu thế lớn, nhưng dự báo tình hình thế giới, khu vực sẽ tiếp tục có nhiều thay đổi rất nhanh, phức tạp, khó đoán định. Các vấn đề tranh chấp chủ quyền quốc gia, tài nguyên, biển đảo, xung đột sắc tộc, tôn giáo, hoạt động can thiệp, lật đổ, chiến tranh cục bộ, chiến tranh mạng…tiếp tục diễn ra gay gắt ở nhiều khu vực. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực mang đến thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia. Đối với nước ta, sau gần 40 năm đổi mới, đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay” [5, tr.25]. Trước yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới, đòi hỏi chú trọng đẩy mạnh “Triển khai đồng bộ, sáng tạo hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng” [5, tr.161] theo đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại. Trong đó, cần tích cực thực hiện có hiệu quả hoạt động đối ngoại quốc phòng và an ninh đáp ứng yêu cầu tình hình mới.
Đối ngoại quốc phòng và an ninh là bộ phận quan trọng trên mặt trận ngoại giao của Đảng và Nhà nước Việt Nam, nhằm thực hiện mục tiêu là thiết lập và phát triển quan hệ hợp tác về quốc phòng và an ninh với tất cả các nước trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, nhằm góp phần tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, giữ vững môi trường hòa bình, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trên cơ sở kiên định đường lối đối ngoại của Đảng, đối ngoại quốc phòng và an ninh hiện nay phải tiếp tục kế thừa, phát huy giá trị của Hiệp định Giơnevơ và vận dụng kinh nghiệm đấu tranh ngoại giao từ Hội nghị này nhằm nâng cao hiệu quả đối ngoại quốc phòng và an ninh trong tình hình mới.
Theo đó, hoạt động đối ngoại quốc phòng và an ninh phải không ngừng được đẩy mạnh theo hướng “thêm bạn, bớt thù”. Triển khai phát triển sâu, rộng cả về phạm vi và mức độ hợp tác với các quốc gia, các tổ chức, định chế quốc tế, góp phần từng bước đưa quốc phòng và an ninh Việt Nam hội nhập thế giới. Tích cực đổi mới nội dung, hình thức quan hệ, hợp tác quốc phòng và an ninh nhằm mở rộng trên nhiều lĩnh vực, với nhiều đối tác, trong đó có những nội dung mang tính đột phá, đóng góp hiệu quả vào phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh quốc gia, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, nâng cao uy tín, vị thế của đất nước, Quân đội, Công an ở khu vực và trên thế giới. Trong tình hình mới, đối ngoại quốc phòng và an ninh hiện nay không chỉ tăng cường mặt hợp tác, mà phải chú trọng cả mặt đấu tranh và kết hợp chặt chẽ giữa hợp tác và đấu tranh trên các mặt, lĩnh vực. Với các tranh chấp, mâu thuẫn, cần khôn khéo đấu tranh, xác định rõ ưu tiên quan hệ với các nước láng giềng, khu vực, các nước lớn, các nước bạn bè truyền thống và các nước khác; đưa đối ngoại quốc phòng và an ninh vào chiều sâu, có hiệu quả thiết thực.
Với riêng đối ngoại quốc phòng, cần thực hiện nhất quán chính sách quốc phòng “4 không” [6]. Tích cực, chủ động thực hiện cam kết theo những cơ chế hợp tác khu vực và thế giới về tham gia phòng, chống các nguy cơ an ninh phi truyền thống và giữ gìn hoà bình, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế; tham gia hoạt động gìn giữ hoà bình của Liên hợp quốc; phối hợp cứu hộ, cứu nạn, thực hiện tuần tra chung trên biên giới đất liền và trên biển với một số nước...Quá trình đó, phải tiếp tục hướng vào thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 806-NQ/QUTW, ngày 31/12/2013 của Quân uỷ Trung ương “Về hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng đến năm 2020 và những năm tiếp theo”.
Với đối ngoại an ninh, tiếp tục thực hiện chiến lược an ninh đối ngoại và bước đi trong quan hệ với các cơ quan thực thi pháp luật các nước, các tổ chức quốc tế với mục tiêu “thêm bạn, bớt thù”, xây dựng môi trường hoà bình để xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước; chủ động tham gia các diễn đàn hợp tác quốc tế về đấu tranh phòng, chống tội phạm; xây dựng và thực hiện tốt các cơ chế đối thoại an ninh; nắm bắt thời cơ, lựa chọn mức độ, cấp độ tham gia và khởi xướng các liên kết khu vực, quốc tế phù hợp với lợi ích của Việt Nam.
Bảy thập kỷ Hiệp định Giơnevơ đã tồn tại với thời gian và chính thời gian đã làm cho Hiệp định thêm sâu sắc và bền vững về ý nghĩa lịch sử, giá trị hiện thực và bài học kinh nghiệm. Trong tình hình mới, cần tiếp tục kế thừa, phát huy những giá trị của Hiệp định Giơnevơ trong hoạt động đối ngoại về quốc phòng và an ninh, góp phần giữ vững môi trường hoà bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tài liệu tham khảo
[1]. Hăngri Nava, Thời điểm của những sự thật, Nxb CAND,H,2004,tr.93.
[2]. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 9, Nxb CTQG ST, H, 2011, tr.1-2.
[3]. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 4, Nxb CTQG ST, H, 2011, tr.534.
[4]. Hăngri Nava, Đông Dương hấp hối, Nxb Plông, Pari, 1958, tr.193 (Bản dịch của Viện Sử học).
[5]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb CTQG ST, H, 2021, tr.25.
[6]. Không tham gia liên minh quân sự; không liện kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoại đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.
Đại tá, PGS. TS. NGƯT NGUYỄN XUÂN TÚ
Nguyên Tổng Biên tập Tạp chí Giáo dục lý luận chính trị quân sự, Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng.
.