TÌM HIỂU VỀ CHỦ NGHĨA NHÂN ĐẠO TRONG QUAN ĐIỂM GIÁO DỤC CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
1. Đặt vấn đề
Trong tiến trình phát triển của nhân loại, nhiều nhà triết học, nhà tư tưởng đã bàn đến chủ nghĩa nhân đạo trên những bình diện, mức độ khác nhau. Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, chủ nghĩa nhân đạo được sự quan tâm rất lớn và được thể hiện ở hai dòng lớn là: Dòng thứ nhất, bình thường đối với con người; dòng thứ hai, cao hơn, trực tiếp đặt ra yêu cầu phát triển năng lực, phẩm chất con người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa nững nét ưu Việt, của chủ nghĩa nhân đạo thế giới và Việt Nam, được nâng lên ở tầng cao thời đại và nhân loại.
Bước đầu tiêu tìm hiểu về chủ nghĩa nhân đạo trong quan điểm giáo dục của chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài viết này tác giả xin tóm lược trong 4 ý như sau:
- Chủ tịch hồ chí minh đi tinh điền cứu nước, giải phóng dân tộc cũng đã xây dựng những tiền đề cho nền giáo dục dân tộc dân chủ của nước ta.
- Chủ nghĩa nhân đạo trong quan điểm giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm thực hiện: “Dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc”.
- Chủ nghĩa nhân đạo trong quan điểm giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh được đặc biệt dành cho thế hệ trẻ.
- Chủ nghĩa nhân đạo trong quan điểm giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhằm bình đẳng giáo dục với tất cả mọi người.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Chủ tịch Hồ Chí Minh đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc cũng đã xây dựng những tiền đề cho nền giáo dục dân tộc, dân chủ của nước ta.
Hơn 30 bôn ba bốn bể năm châu “tìm đường cứu nước”, cùng với việc đấu tranh trên các mặt trận chính trị quân sự, ngoại giao Người đã sớm phát hiện vai trò của giáo dục. Người đặt giáo dục ở vị trí quan trọng như một phương tiện. Tiến công vào dinh lũy của kẻ thù. Từ năm 1919 với “Bản yêu sách của nhân dân Việt Nam” đến năm 1925 với “Bản án chế độ thực dân Pháp” Người đã cực lực lên án chính sách giáo dục của thực dân Pháp nhằm đưa dân tộc ta tối trên 95% dân số mù chữ, thực hiện chính sách “Ngu dân” để dễ bề bóc lột, đô hộ. Người lên án mục đích và phương pháp giáo dục của thực dân Pháp chỉ nhằm: “đào tạo tùng phái, thông ngoa và viên chức nhỏ đủ số cần thiết phục vụ cho bọn xâm lược”, hơn thế nữa nhằm: “gieo rắc một nền giáo dục đồi bại, xảo trá và nguy hiểm sự dốt nát”, chỉ dạy cho người học “kinh rẻ nguồn gốc giống nòi mình và trở lên ngu ngốc thêm”.
Trong thời kỳ hoạt động tại Pháp với nhiều hoạt động khác nhau, Người đã tố cáo chính sách làm ngu dân, bóc lột dân tộc của thực dân Pháp ở Việt Nam. Ở Đông Dương yêu cầu thực dân pháp phải nới rộng “quyền được học tập của nhân dân ta, trước hết là của thanh thiếu niên”.
Khi đến với “Luận cương của Lê Nin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa”, tại Trường Đại học Phương Đông, Người đã tìm thấy ở đây hình ảnh một nền giáo dục, một nhà trường dân chủ, tiến bộ của Việt Nam trong tương lai. Trở về hoạt động tại Trung Quốc, Xiêm; thời kỳ chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính (1945) Người cũng đã chuẩn bị những tiền đề cho nền giáo dục dân tộc, dân chủ của nước nhà.
2.2. Chủ nghĩa nhân đạo trong quan điểm giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh thực hiện: “Dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc”.
Cách mang 08/1945 thành công là bước ngoặt vĩ đại của lịch sử dân tộc, là điều kiện để đem lại đời sống hạnh phúc, ánh sáng trí tuệ cho con người Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng ấp ủ lòng nhân ái từ thuở thiếu thời người đã nói lời thiết tha (trong khi trả lời phỏng vấn của nhà báo nước ngoài, đăng trên báo quốc Cửu quốc ngày 21 /01/1946).
“Tôi chỉ có một ham muốn ham muốn, ham muốn tột bực là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
Trong thư gửi Ủy ban nhân dân các Kỳ, Tỉnh, Huyện và làng tháng 10/1945, chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh:
“Ngày nay chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Người thấu hiểu dân khổ vì bị bóc lột, bị chính sách đô hộ của thực dân làm cho ngu dốt, không được học hành. Chính vì vậy, trong hoàn cảnh cấp bách khi mới giành được chính quyền, ngày 03/9/1945, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra đề nghị: “Nạn dốt là một trong những phương pháp độc ác mà bọn thực dân Pháp dùng để cai trị chúng ta. Hơn nữa 95% đồng bào chúng ta mù chữ. Nhưng chỉ cần 3 tháng là đủ để học đọc, học viết tiếng ta theo vần Quốc ngữ. Một dân tộc dốt là dân tộc yếu. Vì vậy tôi đề nghị mở chiến lược chống nạn mù chữ”. Đề nghị của Người được Hội đồng Chính phủ thông qua thành Nghị quyết. Ngày 8 tháng 9 năm 1945 chính phủ ký 3 sắc lệnh quan trọng:
- Sắc lệnh số 17/SL thành lập Nhà bình dân học vụ
- Sắc lệnh số 19/Sl quy định hạn trong 6 tháng, làng nào, thị trấn nào cũng phải có lớp học.
- Sắc lệnh số 20/SL cưỡng bách học chữ Quốc ngũ và không mất tiền, hạn một năm tất cả mọi người Việt Nam từ 8 tuổi trở lên phải biết đọc, biết viết chữ Quốc ngữ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: “Dốt cũng là giặc”. Người phát động: “Chống giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm”.
Tháng 10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi chống thất học. Trong lời kêu gọi Người chỉ rõ tình trạng gần như toàn dân bị mù chữ là một trở lực to lớn đối với sự tiến bộ và giàu mạnh của đất nước sau này. Người khẳng định: “Một trong những công việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc này là nâng cao dân trí”. Người khuyên mọi người Việt Nam “Trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ”.
Chỉ trong một thời gian ngắn phong trào chống nạn mù chữ đã lan rộng khắp cả nước tạo nên một “chiến dịch” với sự tham gia đông đảo của đồng bào đủ mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi.
Trong những điều kiện cực kỳ gian khổ, khó khăn, phức tạp của những năm đầu dưới chính quyền cách mạng, những năm đầu của cuộc kháng chiến trường kỳ, chiến dịch chống nạn mù chữ chưa đạt mục tiêu mong muốn. Nhưng những bài học thu được là vô cùng quý báu. Cùng với việc chống nạn mù chữ, Chính phủ dưới sự chỉ đạo, quan tâm sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những sắc lệnh, chủ trương cải tạo, xây dựng hệ thống giáo dục quốc dân dân chủ, khoa học, đại chúng. Từ tháng 10/1945, tuyên bố của Bộ Giáo dục đã khẳng định mục tiêu của nền giáo dục là: “Tôn trọng nhân phẩm, rèn luyện trí khí, phát triển tài năng” của mọi người để “phụng sự đoàn thể, và góp phần vào cuộc tiến hóa chung của nhân loại”.
Chủ nghĩa nhân đạo trong quan điểm giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn được thể hiện nhất quán trong mọi chỉ đạo và hoạt động thực tiễn của Người suốt cuộc đời hoạt động cho đến lúc Người đi xa. Từ “chiến dịch diệt dốt”, bình dân học vụ là nền tảng ban đầu cho việc từng bước nâng cao dân trí, điều kiện tất yếu cho việc thực hiện “dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc”.
2.3. Chủ nghĩa nhân đạo trong quan điểm giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt dành cho thế hệ trẻ.
Tháng 9/1945, nhân ngày khai giảng năm học đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho học sinh. Người viết:
“Các em hãy nghe lời tôi, lời của một người anh lớn lúc nào cũng ân cần, mong mỏi cho các em được giỏi giang. Trong năm học tới đây, các em hãy cố gắng siêng năng học tập, ngoan ngoãn, nghe thầy, yêu bạn. Sau 80 năm nô lệ làm cho nước nhà bị yếu hèn, ngày nay chúng ta cần phải xây dựng lại cơ đồ mà tổ tiên đã để lại cho chúng ta, làm sao cho chúng ta theo kịp các nước khác trên toàn cầu. Trong công cuộc kiến thiết đó, nước nhà trông mong chờ đợi ở các em rất nhiều. Non sông Việt Nam có trên nên tươi đẹp được hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”. Người ân cần căn dặn, kỳ vọng ở thế hệ trẻ sẽ làm cho Tổ quốc Việt Nam “theo kịp các nước khác trên hoàn cầu”. Người chỉ rõ: “chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”.
Trong những dịp khai giảng năm học, tết trung thu, ngày thiếu nhi quốc tế (1/6) vv...Người gửi thư ân cần dạy bảo, căn dặn các thầy cô giáo, các bậc cha mẹ, các anh chị phụ trách thiếu nhi và mọi người phải hết sức quan tâm, chăm sóc, giáo dục thế hệ trẻ.
Trong Di chúc (bản tháng 05/1968), Bác đã có những lời căn dặn: “những chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực lượng vũ trang nhân dân và thanh niên xung phong đều đã được rèn luyện trong chiến đấu và đều dũng cảm. Đảng và Chính phủ cần chọn một số ưu tú nhất cho các cháu đi học thêm các ngành nghề để đào tạo thành những cán bộ và công nhân có kỹ thuật giỏi, tư tưởng tốt, lập trường cách mạng vững chắc. Đó là đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở nước ta”.
Trong bức thư tâm huyết Bác viết ngày 15/10/1968 gửi cho ngành giáo dục, bác căn dặn: “Dù khó khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt và học tốt”. Trên nền tảng giáo dục chính trị và lãnh đạo tư tưởng tốt phải phấn đấu nâng cao chất lượng văn hóa và chuyên môn nhằm thiết thực giải quyết các vấn đề do cách mạng nước ta đề ra và trong một thời gian không xa đạt những đỉnh cao của khoa học kỹ thuật.
Chưa đầy một năm sau khi viết bức thư cuối cùng này cho ngành giáo dục, Bác ra đi (02/9/1969) để lại muôn vàn tình thương yêu cho toàn Đảng, toàn dân nhất là cho thế hệ trẻ Việt Nam. Bức thư cuối cùng Bác gửi cho ngành giáo dục cùng với Di chúc của Bác trước lúc đi xa là những di sản vô giá, có ý nghĩa vĩnh hằng cho công cuộc phát triển nền giáo dục của nước nhà.
2.4. Chủ nghĩa nhân đạo trong quan điểm giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh là bình đẳng giáo dục đối với tất cả mọi người
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.
Chủ nghĩa nhân đạo trong quan điểm giáo dục của chủ tịch Hồ Chí Minh là sự phát triển toàn diện của toàn xã hội hòa nhập với phát triển toàn diện ở mỗi con người. Nó còn là sự bình đẳng giáo dục đối với tất cả mọi người, không phân biệt dân tộc, tuổi tác, trai gái, xuôi ngược. Ngay những thời điểm đầu tiên của chính quyền mới, chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Chính vì vậy, mà mặc dù trong tình thế cấp bách sau cách mạng tháng 8/1945, Người đã chủ trương “chống giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm”. Người kêu gọi chống nạn thất học. Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phong trào chống nạn mù chữ lan rộng khắp mọi miền trong cả nước. Người kêu gọi: “Những người biết chữ hãy dạy cho những người chưa biết chữ” và “ những người chưa biết chữ hãy gắng sức mà học cho biết”. Người đặc biệt chú ý đến phụ nữ, những người cần phải học vì đã lâu bị kìm hãm.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng chọn Việt Bắc là căn cứ địa, là chiến khu của Cách mạng Tháng 8/1945 và cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp. Người thấu hiểu những khó khăn, thiếu thốn của đồng bào các dân tộc thiểu số. Người rất quan tâm đến công tác xóa mù chữ, phát triển giáo dục miền núi, vùng đồng bào các dân tộc thiếu số.
Sau khi thành lập khu tự trị Tây Bắc (1955), khu tự trị Việt Bắc (1956), các tổ chức giáo dục đã được xây dựng từ cấp khu đến cơ sở, phong trào giáo dục từng bước được phát triển. Trong những khó khăn thiếu thốn nhất của giáo dục các vùng này thì thiếu nhất, khó nhất là thiếu giáo viên.
Năm 1959, có cuộc vận động giáo viên miền xuôi lên công tác tại vùng Tây Bắc, Việt Bắc và vùng nùi Thanh - Nghệ -Tĩnh.
Từ ngày 10-15/7/1959, Bộ giáo dục tổ chức học chính trị cho gần 860 giáo viên tình nguyện lên công tác miền núi phía Bắc. Bác Hồ đã đến thăm và huấn thị cho hội nghị. Bác căn dặn: “Đã xung phong, phải xay, phong đến nơi đến chốn”.
3. Kết luận:
Chủ nghĩa nhân đạo nói chung và trong quan điểm giáo dục nói riêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa đạo đức truyền thống của dân tộc, tư tưởng tiến bộ của nhân loại, thế giới quan, nhân sinh quan Mác – Lê Nin được vận dụng khéo léo, sáng tạo trong hoàn cảnh cụ thể của nước ta.
Chủ nghĩa nhân đạo cao cả của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn được biểu thị ở chính nhân cách vĩ đại, ở tấm gương ngời sáng trong phong cách, đạo đức của Người. Chúng ta nguyện học tập, làm theo tư tưởng, phong cách đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu.
Tài liệu tham khảo
[1]. Hồ Chí Minh, toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2000, tập 12; Hà Nội 1980 tập 1,2.
[2]. Dương Kinh Quốc: Việt Nam, những sự kiện lịch sử, Ban nghiên cứu lịch sử Đảng. NXB KHXH. Hà Nội
[3]. Nguyễn Đăng Tiến (chủ biên), Nguyễn Phú Tuấn: Danh nhân giáo dục Việt Nam và thế giới. NXB Văn hóa thông tin.2016
[4]. Phạm Tất Dong chủ biên) và tập thể tác giả: Giáo dục Việt Nam 1945-2010. NXB Giáo dục – 2010
[5]. Dương Quảng Hàm – Việt Nam văn học sử yếu. Bộ giáo dục trung tâm học liệu Sài Gòn – 1973
[6]. Nguyễn Đăng Tiến (chủ biên): Lịch sử giáo dục Việt Nam trước cách mạng tháng Tám – 1945 – NXB Giáo dục – Hà Nội 1996.
[7]. Thào Xuân Suông: Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về sự phát triển của các dân tộc thiểu số và miền núi. Tạp chí Lịch sử Đảng, tháng 6-1944.
[8]. Hồ Chí Minh: Các dân tộc đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. NXB Sự thật, Hà Nội, 1991.
NGƯT-TS Nguyễn Phú Tuấn
Viện nghiên cứu hợp tác phát triển giáo dục