TÌNH CẢM ĐẶC BIỆT CỦA BÁC HỒ ĐỐI VỚI THƯƠNG BINH, LIỆT SĨ VÀ NGƯỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG
TCGCVN - Lúc sinh thời, Bác Hồ thường xuyên nhắc nhở Đảng, Nhà nước và nhân dân phải luôn ghi nhớ công ơn của các anh hùng, liệt sĩ, thương binh và những người có công với cách mạng. Người căn dặn: “Bổn phận của chúng ta là phải biết ơn, phải thương yêu và giúp đỡ họ”. Đó là đạo lý và truyền thống “uống nước, nhớ nguồn”, “Đền ơn, đáp nghĩa” của dân tộc Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước viếng các liệt sĩ
tại Nghĩa trang Mai Dịch. Hà Nội, ngày 31/12/1954. Ảnh: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia
Ngay sau khi Cách mạng tháng 8-1945 thành công, trên cương vị người đứng đầu Đảng và Nhà nước, Bác Hồ đã ký ban hành “Thông cáo về việc nhận con các liệt sĩ làm con nuôi” như một chính sách của Nhà nước. Thông cáo nêu rõ: “Vì muốn thay mặt Tổ quốc, toàn thể đồng bào và Chính phủ cảm ơn những chiến sĩ đã hy sinh tính mệnh cho nền Tự do, Độc lập và Thống nhất của nước nhà, hoặc trong thời kỳ cách mệnh, hoặc trong thời kỳ kháng chiến. Tôi gửi lời chào thân ái cho gia đình các liệt sĩ đó và tôi nhận con các liệt sĩ làm con nuôi của tôi”(1).
Đất nước giành được độc lập chưa được bao lâu thì thực dân Pháp bộc lộ dã tâm quyết cướp nước ta một lần nữa. Toàn thể nhân dân Việt Nam lại phải bước vào một cuộc chiến đấu mới đầy cam go, thử thách, quyết liệt để giữ vững giang sơn gấm vóc của Tổ quốc. Nền kinh tế đất nước phải đương đầu với những khó khăn, thách thức chồng chất, vì thế đời sống của các chiến sĩ ngoài mặt trận cũng gặp vô vàn khó khăn, thiếu thốn.
Trong hoàn cảnh đầy cam go của đất nước, Bác Hồ rất thấu hiểu những khó khăn, hy sinh to lớn của quân và dân ta khi bước vào cuộc kháng chiến chống xâm lược. Ngày 10-3-1946, Người gửi thư cho đồng bào Nam Bộ, trong thư có đoạn: “Tôi kính cẩn cúi chào các anh chị em đã bỏ thân vì nước và các đồng bào đã hy sinh trong cuộc đấu tranh cho nước nhà. Sự hy sinh đó không phải là uổng”. Tiếp sau đó, Người viết những dòng đầy xúc động trong bức thư gửi đồng bào cả nước: “Tôi nghiêng mình trước anh hồn những chiến sỹ và đồng bào Việt Nam vì Tổ quốc mà hy sinh anh dũng”. Đầu năm 1946, “Hội giúp binh sỹ bị nạn” (sau đổi tên là “Hội giúp binh sỹ bị thương”) được thành lập ở Thuận Hóa (Bình-Trị -Thiên), ở thành phố Hà Nội và một số địa phương khác. Bác Hồ là Hội trưởng danh dự của Hội. Chiều ngày 7-11-1946, tại nhà hát thành phố Hà Nội tổ chức buổi quyên góp ủng hộ quần áo, giày mũ cho các chiến sĩ ngoài mặt trận, mở đầu cuộc vận động “mùa đông chiến sĩ”. Bác đã đến dự và gửi tặng bộ đội chiếc áo rét đang mặc.
Ngày 19-12-1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng bổ, chiến tranh lan rộng ra nhiều vùng đất nước. Số người tham gia chiến đấu và phục vụ chiến đấu bị thương, hy sinh ngày càng tăng lên. Trước tình hình đó, Trung ương Đảng, Chính phủ dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định một số chủ trương, chính sách quan trọng về công tác thương binh, liệt sĩ, nhằm góp phần ổn định đời sống vật chất, tinh thần của các chiến sĩ và gia đình chính sách, tiếp tục động viên sức người, sức của cho cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược. Ngày 16-2-1947, Người ký Sắc lệnh số 20/SL ban hành chế độ hưu, bổng, thương tật và tiền tuất tử sĩ. Tháng 6-1947, tại một địa điểm thuộc huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, đại biểu của Tổng bộ Việt Minh, Trung ương Hội Phụ nữ Cứu quốc, Trung ương Đoàn Thanh niên Cứu quốc, Cục Chính trị Quân đội Quốc gia Việt Nam, Nha Thông tin tuyên truyền và một số địa phương đã tổ chức họp bàn về công tác thương binh, liệt sĩ. Hội nghị nhất trí đề nghị Trung ương và Chủ tịch Hồ Chí Minh lấy ngày 27 tháng 7 hằng năm làm “Ngày Thương binh toàn quốc”
Chiều ngày 27-7-1947, cuộc mít tinh “Ngày Thương binh toàn quốc” được tổ chức lần đầu tiên tại xã Hùng Sơn, huyện Đại Từ (Thái Nguyên). Tại cuộc mít tinh, mọi người đã được nghe thư của Bác Hồ, trong thư Người nêu rõ: “Đang khi Tổ quốc lâm nguy, giang sơn, sự nghiệp, mồ mả, đền chùa, nhà thờ của tổ tiên ta bị uy hiếp, cha mẹ, anh em, vợ con, thân thích, họ hàng ta bị đe dọa. Của cải, ruộng nương, nhà cửa, ao vườn, làng mạc ta bị nguy ngập. Ai là người xung phong trước hết để chống cự quân thù, để giữ gìn đất nước cho chúng ta. Đó là những chiến sĩ mà nay một số thành ra thương binh... Vì vậy Tổ quốc, đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy”(2).
Sau ngày Chiến thắng Điện Biên Phủ (7-5-1954), Trung ương Đảng và Bác Hồ đã quyết định từ tháng 7-1955, “Ngày Thương binh toàn quốc” được đổi thành “Ngày thương binh, liệt sĩ” và được tổ chức trang trọng hằng năm trên quy mô cả nước. Trên cương vị Chủ tịch nước, mặc dù bận rất nhiều công việc, nhưng hằng năm cứ đến ngày 27/7, Bác đều trực tiếp gửi thư, tặng quà, đi thăm các đồng chí thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng, viếng các anh hùng liệt sĩ ở nghĩa trang... Người luôn khẳng định ý nghĩa cao cả của ngày “Ngày thương binh, liệt sĩ” và coi đó là một dịp cho đồng bào tỏ lòng hiếu nghĩa, bác ái đối với những người đã xả thân vì nước, vì dân. Đó là thể hiện tấm lòng nhân ái của Bác đối với thương binh, liệt sĩ và những người có công với cách mạng.
Là người đứng đầu Đảng và Nhà nước, Bác Hồ nhiều lần đi thăm các đồng chí thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình có công với Tổ quốc. Người căn dặn thương binh, bệnh binh phải luôn giữ vững tinh thần lạc quan, truyền thống vẻ vang và bản chất cách mạng của quân đội; giữ gìn kỷ luật, đoàn kết thương yêu giữa anh, chị em thương, bệnh binh với nhau; đồng thời biết ơn sự săn sóc của nhân dân, của đồng đội, không được công thần, ỷ lại và phải có nghị lực vượt khó khăn, vươn lên trong cuộc sống. Người luôn động viên, khuyến khích thương, bệnh binh khi đã khôi phục sức khỏe cần sớm hòa nhập vào cộng đồng, cố gắng học tập, tham gia sản xuất, cống hiến nhiều cho xã hội, phấn đấu trở thành “Người công dân kiểu mẫu” và những “Gia đình cách mạng gương mẫu”.
Bác Hồ cũng luôn nhắc nhở các ban ngành, đoàn thể từ trung ương tới địa phương phải luôn “tưởng nhớ đến anh em thương binh, tưởng nhớ đến các gia đình tử sĩ, tưởng nhớ đến những người vô danh anh hùng, hoặc đã hy sinh tính mệnh, hoặc đã góp một phần xương máu trong cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc ta”(3). Người đề xướng phong trào “Đón thương binh về làng” để góp phần đảm bảo ổn định đời sống cho thương binh. Người khuyên các cháu thiếu nhi lập phong trào Trần Quốc Toản giúp đỡ thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình bộ đội.
Trước lúc đi xa, Bác đã căn dặn: “Đầu tiên là công việc đối với con người. Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình… Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”. Đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương... cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta. Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương... phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét”(4). Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ không chỉ là lời căn dặn toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trước lúc từ biệt thế giới này, mà còn tỏa sáng ở con người Bác tính nhân văn cao cả, tấm lòng hết mực yêu thương con người, đặc biệt là đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và những người có công với cách mạng.
Khắc ghi lời chỉ dẫn ân cần của Bác, trong gần 40 năm đất nước tiến hành công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành và thực hiện hiệu quả nhiều chủ trương, chính sách, chế độ đối với công tác “Đền ơn đáp nghĩa”, góp phần chăm lo, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của hàng triệu người có công với Tổ quốc. Tuy vậy, công tác chăm sóc và thực hiện chính sách đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và người có công với cách mạng hiện nay vẫn còn tồn đọng không ít vướng mắc, bất cập, đòi hỏi các cấp, các ngành cần tiếp tục nỗ lực tháo gỡ, giải quyết thấu đáo.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII nêu rõ: “Hoàn thiện và thực hiện tốt luật pháp, chính sách đối với người có công trên cơ sở nguồn lực của Nhà nước và xã hội, bảo đảm người có công và gia đình có mức sống từ trung bình khá trở lên trong địa bàn cư trú”. Quán triệt sâu sắc Nghị quyết của Đảng, các cấp, các ngành, các đoàn thể từ trung ương đến địa phương, cơ sở cần thực hiện tốt các Pháp lệnh ưu đãi đối với người có công. Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, chế độ ưu đãi đối với người có công, phù hợp với tình hình và điều kiện cụ thể của đất nước. Đẩy mạnh xã hội hóa phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” như một nét đẹp truyền thống văn hóa của dân tộc với những việc làm hiệu quả, thiết thực, vừa góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của các đối tượng chính sách, vừa góp phần ổn định và phát triển đất nước, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, với chế độ xã hội chủ nghĩa.
__________
(1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 4, tr.435.
(2) Sđd, tập 5, tr.175; (3) Sđd, tập 6, tr.75; (4) Sđd, tập 12, tr.503-504.
Thạc sĩ Nguyễn Đức Thắng
Viện NC hợp tác phát triển Giáo dục