THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP
TCGCVN - Giáo dục nghề nghiệp ở Việt Nam đã có lịch sử phát triển lâu đời, gắn liền với truyền thống các làng nghề. Việc dạy nghề, truyền nghề đã tồn tại, phát triển gắn liền với lịch sử hình thành, phát triển của các làng nghề. Ngày nay, do quá trình phát triển của khoa học, công nghệ và sự hội nhập quốc gia, quốc tế đang làm cho các làng nghề dân gian và các cơ sở GDNN mới xích lại với nhau, hòa nhập vào nhau. Những năm gần đây, do tác động của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đặc biệt do tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và do yêu cầu của quá trình đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT đã tạo ra thời cơ và thách thức mới cho quá trình đào tạo nghề ở các cơ sở GDNN. Trên con đường đi đến chuẩn hóa, hiện đại hóa theo yêu cầu của thời đại, các cơ sở GDNN vẫn đeo bên mình túi hành trang mang đầy tang tích của nền sản xuất nhỏ lẻ, cát cứ của làng nghề truyền thống. Đặc điểm đó đã và đang có tác động khá mạnh đến quá trình tổ chức đào tạo ở các cơ sở GDNN hiện nay. Đôi khi nó còn có sức mạnh hơn cả luật là quy định quản lý của nhà nước. Đó là vấn đề đặt ra cần phải nghiên cứu tìm ra giải pháp, bước đi phù hợp với đặc điểm phát triển GDNN ở nước ta hiện nay.
1. Thực trạng những bất cập trong quản lý nhà nước về GDNN
Trong thực tế, Luật GDNN đã ra đời từ năm 2014, có hiệu lực từ ngày 01/07/2015. Theo công bố của Bộ LĐTB&XH, tính đến ngày 01/3/2019, đã có 63 văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn Luật GDNN trong đó có 05 nghị định, 05 quyết định của Thủ tướng Chính phủ, hơn 45 thông tư và 03 thông tư liên tịch được ban hành. Các văn bản hướng dẫn Luật GDNN và các luật có liên quan, tạo hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất, tạo điều kiện để các cơ sở GDNN tổ chức, triển khai các hoạt động GDNN theo quy định của Luật. Tuy nhiên, quá trình tổ chức thực hiện lại phát sinh những khó khăn, bất cập mới. Những bất cập nằm ngay trong Luật GDNN và trong các văn bản quản lý nhà nước về GDNN.
Tại Hội thảo "Phát triển giáo dục nghề nghiệp trong bối cảnh chuyển đổi mô hình tăng trưởng và hội nhập quốc tế" do Ủy ban VH, GD, TN, TN&NĐ phối hợp với Bộ LĐ, TB&XH tổ chức vào đầu năm 2020, các đại biểu đã chỉ ra những bất cập trong Luật GDNN và các văn bản quản lý nhà nước về GDNN như sau:
Thứ nhất, Luật Giáo dục nghề nghiệp có hiệu lực thi hành từ 01/7/2015, tuy nhiên hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật Giáo dục nghề nghiệp chậm được ban hành (hầu hết chỉ được ban hành trong năm 2017 và 2018). Đến năm 2020 vẫn còn 02 nội dung cần phải hướng dẫn theo quy định Luật Giáo dục nghề nghiệp nhưng chưa có văn bản hướng dẫn.
Thứ hai, phân luồng hiệu quả chưa cao. Công tác tuyển sinh trong GDNN vẫn còn gặp nhiều khó khăn, thách thức, đặc biệt đối với những ngành, nghề học nặng nhọc độc hại, ngành nghề đòi hỏi trình độ năng khiếu; nhiều cơ sở GDNN tuyển sinh không đủ chỉ tiêu; việc tổ chức đào tạo theo quy định của Luật Giáo dục nghề nghiệp có nhiều lúng túng, nhất là trong năm 2017; Còn có hiện tượng phân luồng như phân loại học sinh, sinh viên.
Thứ ba, việc gắn kết với doanh nghiệp đã có nhiều cải thiện, nhiều chương trình hợp tác đã được ký kết song còn nhiều doanh nghiệp vẫn chưa tích cực, chủ động tham gia vào hoạt động GDNN; chưa phối hợp chặt chẽ với cơ sở GDNN trong quá trình đào tạo, đánh giá và tuyển dụng lao động; có những doanh nghiệp chỉ tuyển dụng lao động phổ thông; điều này ảnh hưởng đến công tác tuyển sinh của các cơ sở GDNN
Thứ tư, tiến triển tự chủ chậm, thiếu quyết liệt. Hiện nay cả nước mới có 3 trường công lập thí điểm, trong khi đó vấn đề tự chủ được xem là một trong những khâu đột phá trong quá trình tiến hành đổi mới và sắp xếp lại mạng lưới các cơ sở GDNN của nước ta.
Thứ năm, hiệu quả và hiệu lực của công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực GDNN chưa cao; năng lực của cơ quan quản lý nhà nước về GDNN ở các cấp còn hạn chế; đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về GDNN thiếu về số lượng, chưa chuyên nghiệp và một bộ phận chưa đạt chuẩn; ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, đào tạo trong lĩnh vực GDNN chưa đáp ứng được yêu cầu.
Thứ sáu, mạng lưới cơ sở GDNN còn bất cập về phân bố giữa các vùng miền, ngành nghề, trình độ đào tạo; quy mô đào tạo của nhiều cơ sở GDNN còn nhỏ; việc sáp nhập cơ sở GDNN ở một số địa phương còn mang tính hành chính, cơ học, chưa có nguyên tắc sáp nhập cụ thể, chưa có cơ chế bảo đảm hiệu quả hoạt động của các cơ sở GDNN sau sắp xếp.
Thứ bảy, cơ cấu trình độ đào tạo trong GDNN vẫn còn chưa hợp lý, chủ yếu vẫn là đào tạo trình độ sơ cấp và đào tạo thường xuyên, ngắn hạn (chiếm 75%), trình độ trung cấp, cao đẳng chỉ chiếm khoảng 25% trên tổng số tuyển sinh;
Thứ tám, công tác quản lý và kiểm soát chất lượng GDNN còn hạn chế; tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia ban hành còn chậm; việc tổ chức đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề chưa triển khai được rộng rãi; việc huy động các nguồn lực đầu tư cho GDNN chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; ngân sách nhà nước đầu tư cho GDNN những năm gần đây tuy có tăng nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa tương xứng với mục tiêu nhiệm vụ đề ra; nhiều địa phương chưa ưu tiên nguồn lực đầu tư cho phát triển GDNN.
Theo Hiệp hội giáo dục nghề nghiệp và nghề công tác xã hội Việt Nam cho rằng có nhiều nguyên nhân dẫn đến các hạn chế trên đây. Trong đó, nguyên nhân đáng lưu ý là do Luật chuyên ngành nhưng số điều quy định chung còn khá nhiều, nên cần quá nhiều văn bản dưới luật hướng dẫn, khó cho nhưng năm đầu triển khai. Năm 2017 là năm đầu tiên triển khai tuyển sinh và đào tạo theo quy định của Luật Giáo dục nghề nghiệp, nhiều văn bản hướng dẫn chưa được ban hành. Trong khi đó, nhiều cơ sở GDNN nguyên là Trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng chuyên nghiệp chưa quen với tổ chức, hoạt động theo quy định mới, theo định hướng thực hành; chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm của doanh nghiệp chỉ được sử dụng, tuyển dụng lao động phải qua đào tạo nghề nghiệp ở tất cả các lĩnh vực lao động theo quy định của Luật Giáo dục nghề nghiệp; nhiều doanh nghiệp chưa nhận thức đúng về trách nhiệm xã hội trong việc tham gia hoạt động GDNN.
Bên cạnh đó, nhận thức của cấp ủy Đảng, chính quyền và các cơ quan chức năng về GDNN ở một số địa phương chưa đầy đủ, thậm chí còn coi nhẹ; một bộ phận xã hội vẫn chưa nhận thức đúng về vai trò quan trọng của GDNN trong đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội; tâm lý coi trọng bằng cấp vẫn còn nặng nề; việc định hướng nghề nghiệp, phân luồng học sinh sau tốt nghiệp THCS, THPT không đạt mục tiêu đề ra...
Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 và bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, cơ quan quản lý nhà nước cần triển khai các nhóm giải pháp đồng bộ nhằm đổi mới quản lý nhà nước về GDNN. Do vậy, việc đề xuất các giải pháp đổi mới quản lý đào tạo ở các cơ sở GDNN là rất cấp thiết.
2. Giải pháp quản lý giáo dục nghề nghiệp
2.1. Phân cấp, phân quyền trong quản lý GDNN, rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về GDNN
Phân định rõ công tác quản lý nhà nước với quản trị của cơ sở GDNN. Phân định rõ trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan quản lý GDNN địa phương theo hướng chuyển dần vai trò từ chỉ đạo, kiểm soát chặt chẽ sang giao quyền, hỗ trợ và giám sát. Thực sự thực hiện mô hình quản lý lấy nhà trường làm cơ sở. Xác lập vai trò thực chất của Hội đồng trường là đại diện chủ sở hữu, đại diện giải trình.
Đẩy mạnh phân cấp đi đôi với tăng cường kỷ cương trong quản lý GDNN, nâng cao năng lực của bộ máy quản lý GDNN các cấp; thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm minh, kịp thời các sai phạm trong hoạt động GDNN.
Tiếp tục nghiên cứu, rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về GDNN đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ, công khai, minh bạch và phù hợp với yêu cầu thực tiễn; xây dựng chương trình mục tiêu, đề án, dự án đổi mới GDNN, gắn với đào tạo và đào tạo lại đáp ứng yêu cầu cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Nên tổ chức đánh giá việc thi hành luật GDNN để xem xét sửa đổi, bổ sung, thay thế một số điều cho phù hợp.
2.2. Hoàn thiện cơ chế quản lý, tạo hành lang pháp lý cho hoạt động tự chủ và sự phát triển của GDNN trong bối cảnh mới
Tiếp tục rà soát về cơ chế, chính sách để trao quyền tự chủ hoàn toàn cho các cơ sở GDNN, gắn với trách nhiệm giải trình và sự kiểm tra, giám sát của Nhà nước và xã hội. Quan điểm của Nghị quyết số 29/NQ-TW về đổi mới giáo dục đào tạo cũng đã nêu rõ vấn đề tự chủ các cơ sở giáo dục đào đạo, nhất là đối với giáo dục đại học và GDNN hướng tới mục tiêu, bình đẳng giữa trường công và trường tư trong hoạt động đào tạo; hướng tới nâng cao chất lượng đào tạo. Đây là cơ sở quan trọng để thực hiện mô hình quản trị nhà trường trong môi trường tự chủ. Nhà nước sẽ chuyển từ kiểm soát chi tiết sang chỉ đạo và giám sát.
Đặc biệt, sớm ban hành nghị định tự chủ trong GDNN nhằm đẩy mạnh tự chủ của các cơ sở GDNN gắn với trách nhiệm giải trình, cơ chế đánh giá độc lập, sự kiểm soát của nhà nước, giám sát của xã hội. Thực hiện tự chủ toàn diện; chuyển đổi hoạt động của các cơ sở GDNN công lập đủ điều kiện sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, hạch toán như doanh nghiệp; kiên quyết chuyển sang cơ chế tự bảo đảm hoàn toàn về tài chính, tổ chức nhân sự và thực hiện nhiệm vụ đối với các cơ sở GDNN công lập đào tạo những ngành nghề có khả năng xã hội hóa cao trên cơ sở Nhà nước thực hiện lộ trình bảo đảm kinh phí hoạt động có thời hạn. Đẩy mạnh việc thực hiện cơ chế tự chủ đi đôi với trách nhiệm giải trình, tăng cường sự kiểm tra, giám sát của nhà nước và xã hội. Đối với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp đang hoạt động có hiệu quả, có khả năng tự chủ, tự chịu trách nhiệm thì tiếp tục triển khai thực hiện đào tạo theo quy định hiện hành sau khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp thời kỳ 2021 -–2030.
2.3. Quy hoạch mạng lưới các cơ sở GDNN phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội, tập trung đầu tư phát triển các trường trọng điểm
Quy hoạch mạng lưới cơ sở GDNN theo hướng mở, bảo đảm quy mô, cơ cấu, hợp lý về ngành, nghề, trình độ đào tạo (đa ngành, chuyên ngành), vùng miền, chuẩn hóa, hiện đại hóa, có phân tầng chất lượng;
Rà soát lại quy hoạch mạng lưới cơ sở GDNN, trong đó quy hoạch các trường chất lượng cao, các trường đạt tiếp cận trình độ khu vực và quốc tế. Sáp nhập hoặc giải thể các cơ sở GDNN yếu kém, hoạt động không hiệu quả, không đủ năng lực triển khai tự chủ; từng bước sáp nhập trường trung cấp công lập vào trường cao đẳng; sáp nhập trung tâm kỹ thuật tổng hợp hướng nghiệp, trung tâm dạy nghề thành một cơ sở GDNN trên địa bàn cấp huyện và hợp tác chặt chẽ với các trường cao đẳng, trung cấp để tổ chức đào tạo.
Cần rà soát, đánh giá lại tiến độ hội nhập của 45 trường đã được định hướng tập trung đầu tư thành trường chất lượng cao và các trường được quy hoạch các nghề trọng điểm cấp độ ASEAN, quốc tế;
Tập trung nguồn lực đầu tư một số cơ sở GDNN chất lượng cao, ngành, nghề trọng điểm đã được quy hoạch theo các cấp độ (quốc tế, khu vực ASEAN và quốc gia) và các cơ sở GDNN chuyên ngành, các nhóm đối tượng đặc thù. Khuyến khích thành lập mới cơ sở GDNN tư thục, cơ sở GDNN của doanh nghiệp và có vốn đầu tư nước ngoài.
Đồng thời, cần có cơ chế, giải pháp hữu hiệu đẩy mạnh phân luồng, tạo ra sự cân đối tương đối hợp lý cung- cầu trong đào tạo các trình độ và nhu cầu sử dụng; tư vấn học nghề, việc làm hiệu quả hơn.
2.4. Triển khai áp dụng khung trình độ quốc gia về đào tạo nghề
Triển khai áp dụng khung trình độ quốc gia đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; xây dựng các chuẩn đầu ra theo Khung trình độ quốc gia có tham chiếu các tiêu chuẩn năng lực của các nước trong khu vực và quốc tế; Nghiên cứu dựa vào Khung trình độ quốc gia để tiếp cận chuẩn đầu ra bao gồm kiến thức, kỹ năng, năng lực tự chủ và trách nhiệm của người học sau khi hoàn thành khoá học của một trình độ đào tạo nhất định theo danh mục nghề đào tạo trình độ trung cấp nghề, trình độ cao đẳng nghề.
Xây dựng Chuẩn đầu ra phù hợp để hội nhập quốc tế: Quy định khả năng của người học, kiến thức, kỹ năng, thái độ và những phẩm chất khác cần phải đạt được khi tốt nghiệp ở mỗi cấp trình độ, mỗi ngành, nghề đào tạo. Năng lực của người học được mô tả gồm: độ rộng, độ sâu của kiến thức, kỹ năng; mức độ áp dụng kiến thức, kỹ năng; mức độ tự chủ và trách nhiệm trong công việc. Cơ sở của việc xác định chuẩn đầu ra hiện nay dựa trên tiêu chuẩn năng lực của ngành, nghề (kiến thức, kỹ năng, thái độ và những phẩm chất khác cần phải đạt được khi tốt nghiệp) hay tiêu chuẩn nghề quốc gia.
Thúc đẩy sự hình thành và phát triển của hệ thống chuyển đổi tín chỉ, thực hiện công nhận văn bằng và chuyển đổi tín chỉ giữa các nước trong khu vực ASEAN và thế giới;
2.5. Đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo nghề, cập nhật trình độ phát triển khoa học, công nghệ hiện đại
- Đổi mới chương trình đào tạo tiếp cận trình độ tiên tiến của các nước phát triển trên thế giới. Trước mắt thực hiện chuyển giao 80 bộ chương trình cấp độ khu vực ASEAN và 60 chương trình, giáo trình cấp độ quốc tế; Xây dựng 50 bộ chương trình tiếng Anh chuyên ngành cho nhóm nghề cấp độ quốc gia, khu vực ASEAN và quốc tế; tổ chức thí điểm và hướng dẫn đánh giá đầu ra cho học sinh, sinh viên về kỹ năng tin học và tiếng Anh.
- Tiếp tục tiếp nhận chuyển giao và công nhận 22 bộ chương trình, giáo trình, học liệu, phương pháp giảng dạy, công nghệ đào tạo từ các nước phát triển trên thế giới; Tổ chức triển khai đào tạo thí điểm trình độ cao đẳng cho 12 nghề trọng điểm cấp độ quốc tế; Tổ chức triển khai đào tạo thí điểm trình độ cao đẳng cho 22 nghề trọng điểm cấp độ quốc tế.
- Tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ trong đào tạo tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, đặc biệt là những ứng dụng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư như công nghệ số, công nghệ thực tế ảo, Internet vạn vật...
Xây dựng các phần mềm mô phỏng thực hành của một số chương trình giảng dạy cho các nghề trọng điểm cấp độ quốc gia;
- Xây dựng cơ sở dữ liệu về mạng lưới giáo dục nghề nghiệp và phát triển, công nhận trình độ kỹ năng; từng bước số hóa, xây dựng các cơ sở giáo dục nghề nghiệp thông minh, có khả năng kết nối, chia sẻ tài nguyên; có cơ chế quản trị và chia sẻ thông tin giữa các đối tác, đặc biệt giữa cơ sở giáo dục nghề nghiệp và doanh nghiệp.
2.6. Bồi dưỡng, phát triển đội ngũ nhà giáo, nghệ nhân, chuyên gia và người dạy nghề
- Rà soát, bổ sung, hoàn thiện các quy định, chế độ, chính sách về đãi ngộ, tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, kiểm tra, đánh giá đối với đội ngũ giáo viên dạy nghề: Xây dựng và ban hành Chức danh nghề nghiệp, Tiêu chuẩn nghiệp vụ chức danh nghề nghiệp, chuyển xếp lương cho giáo viên dạy nghề; quy định phụ cấp đối với giáo viên dạy cả lý thuyết và thực hành (dạy tích hợp); định kỳ 2 đến 5 năm giáo viên dạy nghề được bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, cập nhật kỹ thuật, công nghệ mới, phương pháp giảng dạy…và đi thực tế sản xuất tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.
- Ưu tiên, tập trung nguồn lực định kỳ thường xuyên tổ chức đào tạo, bồi dưỡng chuẩn hóa và nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ nhà giáo, nhất là đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo giảng dạy các ngành, nghề trọng điểm tiếp cận trình độ các nước ASEAN-4 và các nước phát triển trong nhóm G20 ở các nước có hệ thống giáo dục nghề nghiệp phát triển; chú trọng đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn cho nhà giáo, đáp ứng yêu cầu giảng dạy ngành, nghề mới mà xã hội có nhu cầu. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, đảm bảo linh hoạt, đáp ứng nhu cầu của nhà giáo.
- Phát triển mạnh đội ngũ nghệ nhân, chuyên gia, người dạy nghề đủ năng lực tham gia đào tạo các cấp trình độ trong giáo dục nghề nghiệp. Hình thành mạng lưới kết nối đội ngũ nhà giáo, nghệ nhân, chuyên gia và người dạy nghề trong giáo dục nghề nghiệp.
- Tăng cường năng lực các cơ sở thực hiện đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo giáo dục nghề nghiệp theo hướng phù hợp với cơ cấu các ngành, nghề, lĩnh vực đào tạo và phân bổ hợp lý theo vùng miền, đáp ứng nhu cầu phát triển đội ngũ nhà giáo.
- Đổi mới phương pháp đào tạo, bồi dưỡng GVDN, chú trọng phương pháp thực hành, hoạt động nhóm; đổi mới nội dung và hình thức tổ chức thực tập sư phạm; phối hợp với doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, định kỳ hàng năm đưa GVDN đi thực tế, rèn luyện kỹ năng nghề, chia sẻ kỹ thuật, công nghệ mới... tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ.
- Đối với giáo viên dạy các nghề trọng điểm cấp độ quốc tế và khu vực ASEAN: Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng (trong nước và ngoài nước) cho giáo viên dạy các nghề trọng điểm cấp độ quốc tế, khu vực theo chương tr.nh tiên tiến của nước ngoài theo hướng chuẩn hoá, đủ về số lượng và đảm bảo về chất lượng.
- Đối với giáo viên dạy các nghề được đầu tư trọng điểm cấp độ quốc gia và các nghề không được đầu tư trọng điểm: Xây dựng chương trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng nghề theo chuẩn quốc gia.
- Đối với giáo viên dạy trình độ Sơ cấp nghề: được đào tạo, bồi dưỡng đạt chuẩn quốc gia về kỹ năng nghề và sư phạm dạy nghề.
2.7. Phát triển đội ngũ cán bộ quản lý cơ sở giáo dục nghề nghiệp
-Xây dựng, ban hành tiêu chuẩn đối với cán bộ quản lý giáo dục nghề nghiệp ở các cấp.
-Xây dựng bộ chương trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng về quản lý giáo dục nghề nghiệp và tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý cơ sở giáo dục nghề nghiệp đảm bảo yêu cầu tiêu chuẩn đối với cán bộ quản lý.
- Đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên để nâng cao năng lực đối với đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục nghề nghiệp theo phân tầng chất lượng cơ sở giáo dục nghề nghiệp, cụ thể:
Xây dựng chương trình, biên soạn tài liệu và tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý, trong đó chú trọng nâng cao năng lực quản trị hiện đại, kỹ năng số, nghiên cứu khoa học, năng lực ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu đổi mới sáng tạo, hội nhập quốc tế. Hỗ trợ đào tạo phát triển đội ngũ cán bộ quản lý đào tạo tại doanh nghiệp.
Hình thành trung tâm có chức năng đào tạo, bồi dưỡng nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục nghề nghiệp thuộc Trung tâm Quốc gia đào tạo và thực hành nghề chất lượng cao.
- Thu hút, phát triển đội ngũ các nhà khoa học, chuyên gia trong nước và nước ngoài tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học và quản lý tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp ở Việt Nam.
2.8. Nâng cao chất lượng đào tạo nghề cho học sinh, sinh viên
- Các cơ sở GDNN (trừ các cơ sở đào tạo đặc thù) không thực hiện dạy Chương trình GDTX cấp THCS, THPT. Các cơ sở GDNN chỉ tổ chức giảng dạy khối lượng kiến thức văn hóa THPT theo quy định của Bộ trưởng Bộ GDĐT (để đủ kiến thức phổ thông tối thiểu để người học liên thông được lên từ trình độ trung cấp lên trình độ cao đẳng)
- Tiếp tục triển khai có hiệu quả Quyết định số 522/QĐ-TTg ngày 14/5/2018 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Đề án “Giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng học sinh trong giáo dục phổ thông giai đoạn 2018 - 2025”. Đặc biệt, giai đoạn từ nay đến năm 2025 và các năm tiếp theo thực hiện có hiệu quả mục tiêu: “Phấn đấu ít nhất 40% học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở tiếp tục học tập tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp đào tạo trình độ sơ cấp, trung cấp; đối với các địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn đạt ít nhất 30%;” và “Phấn đấu ít nhất 45% học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông tiếp tục học tập tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp đào tạo trình độ cao đẳng; đối với các địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn đạt ít nhất 35%.”. Do đó, thực hiện phân luồng triệt để, để đảm bảo các mục tiêu trên của Đề án. Không tiếp tục triển khai mô hình dạy văn hóa kết hợp với dạy nghề tại trung tâm giáo dục nghề nghiệp – giáo dục thường xuyên để nâng cao chất lượng của cả 02 chương trình học; đáp ứng yêu cầu đổi mới, nâng cao chất lượng và quy mô đào tạo nghề.
- Chú trọng xây dựng các chương trình đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực nghề nghiệp tại các Trung tâm GDNN-GDTX, Trung tâm GDTX nhằm góp phần nâng cao năng lực làm việc cho người lao động; tạo cơ hội cho người lao động có nhu cầu học tập nâng cao trình độ học vấn, chuyển đổi nghề nghiệp. Đồng thời, Bộ GDĐT tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với mạng lưới cơ sở GDTX như: các quy chế tổ chức và hoạt động của Trung tâm GDNN-GDTX, các Trung tâm khác thực hiện nhiệm vụ GDTX; chế độ, chính sách của nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục làm việc trong các cơ sở GDTX; quy định về kiểm định chất lượng cơ sở GDTX, chương trình GDTX…. Từng bước nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng và học tập suốt đời cho người lao động nông thôn.
- Giao nhiệm vụ cho các cơ sở giáo dục đại học tham gia việc triển khai, thực hiện nhiệm vụ đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo Đề án của Chính phủ để huy động nguồn lực sẵn có của các cơ sở giáo dục đại học, trong đó có nhiều cơ sở đào tạo đã sẵn có cơ sở vật chất và đội ngũ giảng viên và kinh nghiệm đào tạo, do đó sự tham gia các cơ sở giáo dục đại học vào việc đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo Đề án của Chính phủ sẽ mang lại hiệu quả tốt hơn. Mặt khác việc đào tạo nghề cho lao động nông thôn cần gắn với việc chuyển giao kỹ thuật, công nghệ cho nông dân do vậy cần huy động các cơ sở giáo dục đại học tham gia để chuyển giao kỹ thuật sản xuất nông nghiệp cho nông dân.
- Cần có giải pháp đồng bộ từ việc đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến tạo việc làm cho người lao động (hiện tại đề án hầu như chưa thấy có giải pháp cụ thể để giải quyết việc làm cho lao động nông thôn sau khi được đào tạo nghề), trong đó cần xây dựng hệ thống thông tin về việc làm, mở rộng các dịch vụ việc làm đối với các thành phần kinh tế. Trong xác định nhu cầu đào tạo nghề cho lao động nông thôn cần ưu tiên xác định nhu cầu lao động làm cơ sở để xác định nhu cầu đào tạo (nếu chỉ thien về xác định nhu cầu cần học nghề mà thiếu thông tin về việc làm thì việc đào tạo nghề không mang lại hiệu quả như mong muốn).
2.9. Tăng cường hợp tác quốc tế trong giáo dục nghề nghiệp
- Đẩy mạnh thu hút đầu tư tài chính và kỹ thuật, chia sẻ kinh nghiệm, chuyển giao công nghệ từ các nước có hệ thống giáo dục nghề nghiệp phát triển trong khu vực và trên thế giới, các tổ chức giáo dục, đào tạo quốc tế, đặc biệt trong quá trình xây dựng, vận hành và phát triển mô hình các trung tâm đào tạo chất lượng cao, trung tâm đào tạo vùng.
- Đẩy mạnh thực hiện các hiệp định, thỏa thuận song phương với các đối tác phát triển trong việc đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp tiếp cận trình độ khu vực và quốc tế; đẩy nhanh quá trình công nhận kỹ năng nghề nghiệp lẫn nhau giữa Việt Nam và các nước.
- Tăng cường hợp tác nghiên cứu khoa học, trao đổi kinh nghiệm về đổi mới phương pháp giảng dạy, ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ mới nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ GVDN.
- Khuyến khích, tạo điều kiện để các cơ sở dạy nghề trong nước chủ động mở rộng hợp tác, liên kết đào tạo với các cơ sở đào tạo ở nước ngoài. Tạo hành lang pháp lý thuận lợi để thu hút các nhà đầu tư, các doanh nghiệp nước ngoài phát triển cơ sở dạy nghề chất lượng cao, hợp tác đào tạo nghề tại Việt Nam.
3. Kết luận
Quá trình phát triển của các cơ sở GDNN chủ yếu phụ thuộc và chính sách và năng lực quản lý. Nếu chính sách phù hợp với thực tiễn, tổ chức thực hiện nghiêm túc. Linh hoạt, sáng tạo thì hệ thống các cơ sở GDNN sẽ phát triển, chất lượng đào tạo sẽ được nâng cao.
GDNN là một bộ phận của khoa học giáo dục, là lĩnh vực lớn, chứa đựng nhiều vấn đề khó khăn, bất cập đang được toàn xã hội quan tâm. Để giải quyết những khó khăn, bất cập đó cần phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp. Chuyên đề này đã đề xuất hệ thống 9 giải pháp quản lý nhà nước và quản trị nhà trường đối với quá trình đào tạo ở các cơ sở GDNN. Ngoài các giải pháp này có thể còn những giải pháp khác.
Mỗi giải pháp tác động vào một khâu, một mắt xích trong hệ thống GDNN. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo nghề đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động trong bối cảnh hiện nay phải thực hiện đồng bộ các giải pháp trên đây. Trong đó, phải tăng cường và đổi mới công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách, pháp luật về GDNN. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý nhà nước về GDNN. Tăng cường năng lực đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước về GDNN theo hướng hiện đại. Xây dựng cơ chế để người học và người sử dụng lao động tham gia chủ động vào đánh giá chất lượng đào tạo. Nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác quốc tế trong GDNN. Thúc đẩy xã hội hóa GDNN, xây dựng xã hội học tập; đẩy mạnh hình thức vừa làm, vừa học của người lao động trong các doanh nghiệp. Đổi mới cơ chế cấp phát ngân sách nhà nước sang cơ chế Nhà nước đặt hàng, giao nhiệm vụ đào tạo căn cứ vào số lượng, chất lượng đầu ra hoặc đấu thầu cung cấp dịch vụ đào tạo nghề nghiệp.
Tài liệu tham khảo
1. Ban Bi thư (2023) về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Chỉ thị số 21-CT/TW ngày 04/5/2023
2. Bộ GD&ĐT (2022), Quy định việc giảng dạy khối lượng kiến thức văn hóa trung học phổ thông trong cơ sở giáo dục nghề nghiệp, Thông tư số 15/2022/TT-BGDĐT, ngày 08 tháng 11 năm 2022
3. Bộ LĐ-TBXH (2022), Quy định chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm giáo dục nghề nghiệp và chứng chỉ nghiệp vụ sư phạm giáo dục nghề nghiệp, Thông tư số 06/2022/TT-BLĐTBXH ngày 06/4/2022
4. Bộ LĐ-TBXH (2022), Quy định về công tác tư vấn nghề nghiệp, việc làm và hỗ trợ học sinh, sinh viên khởi nghiệp trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, Thông tư số 14/2022/TT-BLĐTBXH ngày 30/8/2022
5. Bộ LĐ-TBXH (2022), Quy định về liên kết tổ chức thực hiện chương trình đào tạo trong giáo dục nghề nghiệp, Thông tư số 05/2022/TT-BLĐTBXH ngày 05/4/2022
6. Chính phủ (2021), Quy định về cơ chế thu, quản lý học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập; giá dịch vụ trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, Nghị định Số: 81/2021/NĐ-CP ngày 27 tháng 8 năm 2021
7. Chính phủ (2022), Sửa đổi, bổ sung các Nghị định quy định về điều kiện đầu tư và hoạt động trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp, Nghị định số 24/2022/NĐ-CP ngày 06/042022
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013) "Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế", Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013.
9. Quốc hội (2014), Luật Giáo dục nghề nghiệp, Luật số 74/2014/QH13, ngày 27/11/2014.
10. Quốc hội (2015), Luật Ngân sách Nhà nước 2015, Luật số 83/2015/QH13, ngày 25 tháng 6 năm 2015
11. Quốc hội (2019), Luật Giáo dục, Luật số 43/2019/QH14 ngày 14/6/2019
12. Thủ tướng Chính phủ(2018), Phê duyệt Đề án "Giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng học sinh trong giáo dục phổ thông giai đoạn 2018 - 2025" Quyết định số 522/QĐ-TTg ngày 14/5/2018.
TS. Mai Yến Lan - Trường Đại học Cần Thơ