THỜI CƠ VÀ THÁCH THỨC VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC NGHỀ NGHIỆP TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY
Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã vạch ra chiến lược phát triển đất nước theo từng giai đoạn, trong đó đã chỉ ra các mực tiêu cho kế hoạch 5 năm từ 2021 đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2030, 2045. Đó là cơ sở định hướng cho sự phát triển của giáo dục nghề nghiệp.
Trong thực tiễn, sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; quá trình chuyển đổi số và sự vận động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0; thành tựu của quá trình đổi mới giáo dục, đào tạo cùng với xu thế hội nhập, hợp tác quốc tế đã và đang tạo ra môi trường, cơ hội thuận lợi cho sự phát triển của giáo dục nghề nghiệp.
Trên các diễn đàn giáo dục nghề nghiệp đã có nhiều ý kiến đánh giá về cơ hội và thách thức của giáo dục nghề nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. Bài viết này tập trung phân tích thời cơ, thách thức của giáo dục nghề nghiệp, chỉ ra những khó khăn, bất cập và định hướng giải pháp phát triển trong bối cảnh mới.
1. Thời cơ đối với giáo dục nghề nghiệp
Một là, hệ thống cơ chế, chính sách trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp cơ bản được hoàn thiện đi vào thực tiễn. Theo Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp (GDNN), thực hiện Nghị quyết số 29/NQ-TW ngày 4/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, Luật Giáo dục nghề nghiệp cũng như các văn bản hướng dẫn Luật Giáo dục nghề nghiệp và các quy định có liên quan đến nay đã được ban hành, đảm bảo đủ cơ sở pháp lý để Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội (LĐ-TB&XH), cơ quan quản lý các cấp thực hiện chức năng quản lý nhà nước thực hiện quản lý mục tiêu, chương trình, kế hoạch, chất lượng đào tạo.
Quốc hội đã thông qua Luật Giáo dục số 43/2019/QH14 ngày 14/6/2019, trong đó giao Bộ LĐ-TB&XH chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp.
Các chương trình hành động, chương trình mục tiêu, đề án, dự án, kế hoạch, cơ chế chính sách được cụ thể hóa từ Luật GDNN đã được các bộ, ngành và địa phương triển khai có hiệu quả đem lại lợi ích thực sự cho người học và ngày càng khẳng định được vị trí, vai trò của công tác đào tạo nghề nghiệp đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp đã trình Ban Cán sự Đảng Bộ ban hành Nghị quyết số 617-NQ/BCSĐ ngày 28/12/2018 về tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp đến năm 2021 và định hướng đến năm 2030.
Đến nay, về cơ bản các chủ trương, Nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước liên quan đến giáo dục nghề nghiệp đã được thể chế hóa và được cụ thể trong các văn bản hướng dẫn thực hiện.
Hai là, bộ máy quản lý nhà nước và đội ngũ cán bộ quản lý GDNN được tổ chức và từng bước kiện toàn. Cho đến nay, bộ máy quản lý nhà nước về GDNN được tổ chức và từng bước kiện toàn để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực GDNN từ Trung ương đến các địa phương. Với cơ cấu tổ chức, chức năng nhiệm vụ, trách nhiệm quản lý nhà nước được phân định rõ ràng đã tạo ra được hệ thống thể chế đồng bộ tạo sự thống nhất, xuyên suốt công tác quản lý, chỉ đạo và tổ chức thực hiện; phát huy được tính chủ động, sáng tạo của các bộ, ngành, địa phương trong việc thực thi quyền hạn và trách nhiệm được giao trong quản lý nhà nước về GDNN.
Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục nghề nghiệp có sự phát triển cả về số lượng, chất lượng từng bước phù hợp với cơ cấu ngành nghề đào tạo. Cùng với việc mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp tăng lên, số lượng cán bộ quản lý GDNN cũng tăng. Đến nay, cả nước có 20.748 cán bộ quản lý GDNN, trong đó: Cán bộ quản lý nhà nước: 1.559 người (176 cán bộ thuộc các Bộ, ngành, tập đoàn, tổng công ty, các hiệp hội; 443 cán bộ của Phòng GDNN thuộc Sở LĐTBXH; 801 cán bộ của Phòng LĐTBXH cấp huyện).
Ba là, chương trình, giáo trình đào tạo tại các cơ sở Giáo dục nghề nghiệp từng bước được chuẩn hóa. Ngay sau khi được giao quản lý nhà nước về GDNN, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội đã ban hành 03 thông tư quy định xây dựng chuẩn đầu ra (khối lượng kiến thức tối thiểu, yêu cầu về năng lực mà người học đạt được sau khi tốt nghiệp trình độ TC, CĐ) và xây dựng chương trình, giáo trình làm căn cứ cho các trường xây dựng, ban hành chương trình, giáo trình đào tạo. Trên cơ sở đó đã tổ chức xây dựng, thẩm định ban hành 320 chuẩn đầu ra của 160 ngành, nghề đào tạo ở trình độ TC, CĐ theo quy định, để các trường theo đó xây dựng, hoàn thiện chương trình đào tạo. Ngoài ra, đã ban hành 03 thông tư quy định về đào tạo thường xuyên; quy định về đào tạo theo hình thức vừa làm vừa học; đào tạo từ xa, tự học có hướng dẫn, tạo điều kiện cho người học ở các lứa tuổi có cơ hội được học liên tục, học suốt đời, góp phần xây dựng xã hội học tập. Các chương trình đào tạo được xây dựng dựa trên chuẩn đầu ra, tiếp cận năng lực; được thiết kế thuận lợi cho việc tổ chức đào tạo theo phương thức tích lũy mô đun, tín chỉ.
Bốn là, đội ngũ nhà giáo được chuẩn hóa. Đội ngũ nhà giáo phát triển mạnh về cả số lượng và chất lượng, từng bước khắc phục được tình trạng bất hợp lý về cơ cấu ngành nghề; trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm và kỹ năng nghề, trình độ tin học, ngoại ngữ của nhà giáo được cải thiện và từng bước được chuẩn hóa. Đã hình thành 44 Khoa Sư phạm giáo dục nghề nghiệp ở các trường đại học, đại học sư phạm kỹ thuật, viện n ghiên cứu và trường cao đẳng để đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ nhà giáo.
Tính đến năm 2019, cả nước có 86.350 nhà giáo đang giảng dạy ở 2.957 cơ sở hoạt động GDNN, trong đó có: 37.826 nhà giáo giảng dạy trong trường cao đẳng; 18.198 nhà giáo giảng dạy trong trường trung cấp và 15.481 nhà giáo giảng dạy trong trung tâm GDNN; 14.845 nhà giáo giảng dạy trong các cơ sở khác có tham gia hoạt động GDNN.
Năm là, các giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nghề có nhiều chuyển biến tích cực. Để đào tạo nhân lực chất lượng cao cho sự phát triển kinh tế đất nước theo chủ trương của Đảng, Nhà nước, ngày 23/5/2014 Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án phát triển trường nghề chất lượng cao đến năm 2020 (Quyết định số 761/QĐ-TTg). Theo đó, từ năm 2014 cả nước đã có 45 trường được lựa chọn để tập trung ưu tiên đầu tư đồng bộ thành trường chất lượng cao vào năm 2020. Hiện nay, trước bối cảnh thống nhất hệ thống GDNN, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã trình Thủ tướng Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số nội dung tại Quyết định số 761/QĐ-TTg, dự kiến lựa chọn 86 trường để tập trung ưu tiên đầu tư đồng bộ trở thành trường chất lượng cao.
Ngoài ra, Bộ đã phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương tổ chức lựa chọn, phê duyệt ngành, nghề trọng điểm và trường được lựa chọn ngành, nghề trọng điểm giai đoạn 2016 - 2020 và định hướng đến năm 2025. Mặt khác, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư số 21/2018/TT- BLĐTBXH Quy định tiêu chí xác định chương trình chất lượng cao trình độ trung cấp, trình độ cao đẳng. Đây là cơ sở quan trọng để các cơ sở GDNN tổ chức thực hiện đào tạo các chương trình chất lượng cao, góp phần tăng nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước.
Sáu là, các hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, chuẩn hóa, hiện đại hóa cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục nghề nghiệp được đẩy mạnh. Các hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số được triển khai phổ biến trong đào tạo và quản lý. Công nghệ thông tin được sử dụng rộng rãi trong các hoạt động dạy và học ở các cơ sở giáo dục nghề nghiệp; dạy học qua internet, trên truyền hình được thực hiện mạnh mẽ, nhất là trong thời gian thực hiện giãn cách xã hội để phòng, chống dịch Covid-19. Nhiều dữ liệu về giáo dục nghề nghiệp đã được số hóa; một số cơ sở giáo dục nghề nghiệp đang từng bước triển khai số hóa quy trình quản lý, điều hành; nhận thức, tư duy của đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên về số hóa được nâng cao.
Cơ sở vật chất, thiết bị đào tạo được chuẩn hóa. Thực hiện mục tiêu chuẩn hóa cơ sở, vật chất, thiết bị đào tạo, trong những năm qua, Bộ LĐTBXH đã ban hành nhiều các văn bản quy phạm pháp luật và văn bản hướng dẫn về các tiêu chuẩn, quy chuẩn, quy định trong đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị đào tạo.
Việc xây dựng, ban hành định mức kinh tế - kỹ thuật, danh mục thiết bị đào tạo đã tạo hành lang pháp lý cho các cơ quan quản lý nhà nước trong việc kiểm tra, giám sát, đánh giá năng lực, phê duyệt dự án đầu tư mua sắm, từng bước thực hiện cơ chế giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các cơ sở GDNN; các cơ sở GDNN có căn cứ xây dựng kế hoạch đầu tư, mua sắm, tránh việc đầu tư dàn trải, lãng phí và góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo.
Bảy là, quá trình hội nhập, hợp tác quốc tế trong giáo dục nghề nghiệp được mở rộng và phát huy hiệu quả; nhiều lĩnh vực ngành nghề mới xuất hiện; có nhiều hơn các dự án liên kết đào tạo quốc tế. Sự phát triển của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã mở ra nhiều ra cơ hội mới cho sự phát triển của giáo dục nghề nghiệp. Xu hướng hội nhập, hợp tác quốc tế của giáo dục nghề nghiệp ngày càng mở rộng và phát huy tác dụng. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ hợp tác giáo dục nghề nghiệp với hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Thị trường lao động Việt Nam phát triển mạnh mẽ, xuất khẩu lao động đi nhiều nước trên thế giới.
Nhiều lĩnh vực ngành nghề mới xuất hiện. Đây là 1 cơ hội tốt để các cơ sở đào tạo nghề có thể tổ chức đào tạo, cung ứng lực lượng lao động cho thị trường. Điều đó có nghĩa là khi có thêm một ngành hoàn toàn mới sẽ kéo theo hàng loạt nhu cầu về nguồn nhân lực, về các dịch vụ có liên quan. Sẽ có nhiều quy trình sản xuất mới, nhiều thiết bị được huy động vào quá trình sản xuất và tất nhiên phải có kỹ thuật viên để vận hành hoặc giám sát các quy trình này. Nhiều công cụ hỗ trợ mới ra đời có thể hỗ trợ trong công tác tổ chức và quản lý quá trình đào tạo thì các CSĐT phải có đội ngũ có khả năng làm chủ các công cụ này để khai thác đúng và khai thác có hiệu quả.
2. Thách thức đối với giáo dục nghề nghiệp
Thứ nhất: Công tác quản lý nhà nước, quản trị nhà trường còn bất cập. Quá trình chuyển từ quản lý của Bộ Giáo dục và Đào tạo sang quản lý của Bộ Lao động, Thương binh và xã hội đang đặt ra nhiều vấn đề mới trong tuyển sinh, quản lý và đào tạo nghề nghiệp với đào tạo văn hóa. Một số văn bản quản lý cũ đã không còn phù hợp nhưng văn bản mới chưa kịp ban hành. Dẫn đến trách nhiệm còn chồng chéo; việc kiện toàn tổ chức ở các cơ sở giáo dục nghề nghiệp còn chậm, hoạt động chưa thực chất, chưa phát huy tốt vai trò của Hội đồng trường.
Thứ hai: Đội ngũ giáo viên ở các cơ sở giáo dục nghề nghiệp chưa chuẩn hóa. Giáo viên là lực lượng quyết định chất lượng đào tạo ở các cơ sở giáo dục nghề. Tuy nhiên, trong thực tế, đội ngũ giáo viên đào tạo nghề chưa được chuẩn hóa. Tình trạng thừa, thiếu giáo viên cục bộ vẫn chưa được giải quyết triệt để ở một số địa phương; chất lượng đội ngũ giáo viên chưa đồng đều, còn một bộ phận giáo viên chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới. Chưa có chính sách thu hút những người có trình độ nghiệp vụ và năng lực sư phạm tham gia đào tạo nghề.
Thứ ba: Quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp chưa phù hợp. Trong thực tế, mạng lưới cơ sở GDNN còn bất cập; quy mô tuyển sinh đào tạo còn thấp; cơ cấu ngành nghề đào tạo còn bất hợp lý; chất lượng, hiệu quả đào tạo của nhiều vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu…Một số địa phương chưa coi trọng công tác quy hoạch phát triển nhà trường, còn tình trạng chạy theo số lượng, ít các trường chất lượng cao, quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục nghề nghiệp còn chậm chưa đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao cho thực tiễn. Hiện nay, một số trường đại học ngoài công lập vẫn tổ chức các trung tâm và các hệ trung cấp, cao đẳng thực hiện chức năng đào tạo nghề. Dẫn đến những khó khăn, bất cập trong quản lý nhà nước, phối hợp, phân cấp, phân quyền giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo với Bộ Lao động, Thương binh và xã hội.
Thứ tư: Chất lượng đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động và quá trình phát triển mở rộng của các doanh nghiệp. Một trong những mâu thuẫn nổi lên hiện nay là sự biến động nhanh của các ngành nghề trong nền kinh tế thị trường với sự ổn định tương đối của nội dung, chương trình đào tạo nghề. Điều đó dẫn đến các nhà trường đào tạo ra không đón trước được sự vận động, phát triển của các ngành nghề, của quy trình công nghệ thường xuyên biến đổi. Chất lượng đào tạo chưa đáp ứng kịp yêu cầu ngày càng cao của thị trường lao động. Không ít các nhà trường đào tạo ra nhưng các doanh nghiệp phải đào tạo lại mới sử dụng được.
Thứ năm: Phương thức đào tạo nghề chậm đổi mới; sự phối hợp giữa nhà trường với doanh nghiệp trong đào tạo còn bất cập; cơ sở vật chất, thiết bị đảm bảo cho giáo dục nghề nghiệp còn hạn chế. Trước áp lực cuộc cách mạng công nghiệp 4,0, lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp cần đẩy nhanh chuyển đổi số, đổi mới phương thức đào tạo. Theo đó, đưa hệ thống giáo dục nghề nghiệp tiếp cận với tri thức, kỹ năng, mô hình, quản lý giáo dục mới. Đây là vấn đề còn mới và khó khăn đối với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp Việt Nam hiện nay. Phương thức đào tạo của các nhà trường chậm đổi mới, sự phối hợp, liên kết giữa nhà trường với doanh nghiệp trong đào tạo còn mang tính tự phát, thiếu tính bền vững.
Thứ sáu: Hợp tác quốc tế về giáo dục nghề nghiệp đang đặt ra những yêu cầu mới. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, những ảnh hưởng tác động của cách mạng 4.0 đang đặt ra nhiều thách thức với lĩnh vực GDNN. Các trường đào tạo nghề đang đứng trước cơ hội chuyển mình quan trọng nhằm nâng cao năng lực đào tạo theo tiêu chuẩn quốc tế cũng như khai thác tối đa tiềm năng phát triển trong lĩnh vực hợp tác đào tạo quốc tế nhằm tạo ra nhiều hơn các cơ hội nghề nghiệp trình độ cao cho sinh viên. Hệ thống giáo dục nghề nghiệp cần tranh thủ nguồn lực bên ngoài để theo kịp xu hướng mới của nền giáo dục thế giới. Sự hỗ trợ, hợp tác với tổ chức giáo dục quốc tế, nâng cao năng lực của hệ thống giáo dục nghề nghiệp Việt Nam là rất quan trọng.
3. Đánh giá chung những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân
3.1. Những ưu điểm
Hệ thống GDNN đã và đang thực hiện đổi mới khá mạnh mẽ, đồng bộ, nhất là trong việc xây dựng văn bản QPPL. Chỉ trong thời gian ngắn (3 năm), gần một trăm văn bản QPPL đã được ban hành, kịp thời hướng dẫn triển khai thi hành Luật Giáo dục nghề nghiệp, tạo điều kiện tốt nhất về pháp lý để thực hiện đổi mới và nâng cao chất lượng GDNN;
Công tác tuyên truyền về GDNN được chú trọng, nhận thức của người học, người dân và xã hội về GDNN đã có những chuyển biến nhất định; kết quả tuyển sinh trong 2 năm 2017, 2018 đã bắt đầu đạt và vượt chỉ tiêu đề ra;
Các điều kiện bảo đảm chất lượng GDNN (chương trình đào tạo, nhà giáo, cơ sở vật chất, thiết bị đào tạo) được cải thiện, từng bước chuẩn hóa, hiện đại hóa, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của đổi mới GDNN; nhiều cơ sở GDNN đã có những nghề đạt tiêu chí kiểm định của Úc, Đức và Tổ chức ABET (Mỹ)
Chất lượng và hiệu quả GDNN có bước chuyển biến tích cực; kỹ năng nghề nghiệp của người tốt nghiệp các cơ sở GDNN đã được nâng lên. Ở nhiều nghề, kỹ năng nghề của lao động Việt Nam đã đạt chuẩn quốc tế. Lao động qua đào tạo nghề nghiệp tham gia vào hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân và đã đảm nhận được các vị trí, công việc phức tạp mà trước đây phải do chuyên gia nước ngoài thực hiện; trên 80% người học tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm ngay sau khi tốt nghiệp, ở một số nghề và một số cơ sở GDNN tỷ lệ này đạt gần 100%;
Bắt đầu hình thành mô hình đào tạo chất lượng cao theo tiêu chuẩn quốc tế thông qua các chương trình đào tạo chuyển giao; đáp ứng yêu cầu về lao động chất lượng cao cho thị trường lao động trong nước (các doanh nghiệp FDI) và cho thị trường lao động ngoài nước (lao động kỹ sư);
Học sinh, sinh viên sau khi tốt nghiệp có việc làm đúng ngành, nghề đào tạo đạt tỷ lệ cao và có thu nhập ổn định đã tác động tốt đến tâm lý của người học và xã hội, góp phần làm thay đổi quan điểm và cách nhìn nhận của xã hội về học nghề, lập nghiệp.
Việc tăng cường gắn kết với doanh nghiệp trong tổ chức đào tạo, giải quyết việc làm cho học sinh, sinh viên sau tốt nghiệp bước đầu đi vào chiều sâu, hoạt động hiệu quả; cơ chế phối hợp 3 bên: Nhà nước - Nhà trường - Doanh nghiệp bắt đầu hình thành và vận hành khá tốt trong thực tiễn.
3.2. Những hạn chế
Nhận thức của cấp ủy Đảng, chính quyền và các cơ quan chức năng về GDNN ở một số địa phương chưa đầy đủ, thậm chí còn coi nhẹ; một bộ phận xã hội vẫn chưa nhận thức đúng về vai trò quan trọng của GDNN trong đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội; tâm lý coi trọng bằng cấp vẫn còn nặng nề; việc định hướng nghề nghiệp, phân luồng học sinh sau tốt nghiệp THCS, THPT không đạt mục tiêu đề ra.
Hiệu quả và hiệu lực của công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực GDNN chưa cao; năng lực của cơ quan quản lý nhà nước về GDNN ở địa phương còn hạn chế; đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về GDNN thiếu về số lượng, chưa chuyên nghiệp và một bộ phận chưa đạt chuẩn; ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, đào tạo trong lĩnh vực GDNN chưa đáp ứng được yêu cầu;
Mạng lưới cơ sở GDNN còn bất cập về phân bố giữa các vùng miền, ngành nghề, trình độ đào tạo; quy mô đào tạo của nhiều cơ sở GDNN còn nhỏ; việc sáp nhập cơ sở GDNN ở một số địa phương còn mang tính hành chính, cơ học, chưa có nguyên tắc sáp nhập cụ thể, chưa có cơ chế bảo đảm hiệu quả hoạt động của các cơ sở GDNN sau sắp xếp;
Cơ cấu trình độ đào tạo trong GDNN vẫn còn chưa hợp lý, chủ yếu vẫn là đào tạo trình độ sơ cấp và đào tạo thường xuyên, ngắn hạn (chiếm 75%), trình độ trung cấp, cao đẳng chỉ chiếm khoảng 25% trên tổng số tuyển sinh;
Công tác tuyển sinh trongGDNN vẫn còn gặp nhiều khó khăn, thách thức, đặc biệt đối với những ngành, nghề học nặng nhọc độc hại, ngành nghề đòi hỏi trình độ năng khiếu;
Chất lượng, hiệu quả đào tạo của nhiều cơ sở GDNN mặc dù đã được cải thiện, tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa gắn bó hữu cơ với nhu cầu nhân lực của từng ngành, lĩnh vực cụ thể và yêu cầu của đổi mới cơ cấu kinh tế - xã hội;
Việc gắn kết với doanh nghiệp còn nhiều hạn chế; chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm của doanh nghiệp chỉ được sử dụng, tuyển dụng lao động phải qua đào tạo nghề nghiệp ở tất cả các lĩnh vực lao động theo quy định của Luật Giáo dục nghề nghiệp; nhiều doanh nghiệp chưa nhận thức đúng về trách nhiệm xã hội trong việc tham gia hoạt động GDNN.
Công tác quản lý và kiểm soát chất lượng GDNN còn hạn chế; tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia ban hành còn chậm; việc tổ chức đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề chưa triển khai được rộng rãi;
Việc chuẩn bị đào tạo nhân lực đáp ứng yêu cầu của cuộc CMCN 4.0 còn có những khó khăn và chưa triển khai được nhiều.
Việc huy động các nguồn lực đầu tư cho GDNN chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; ngân sách nhà nước đầu tư cho GDNN những năm gần đây tuy có tăng nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa tương xứng với mục tiêu nhiệm vụ đề ra; nhiều địa phương chưa ưu tiên nguồn lực đầu tư cho phát triển GDNN.
3.3. Nguyên nhân của những hạn chế
Nhu cầu của thị trường lao động ngành nghề thường xuyên biến đổi. Nguyên nhân khách quan là do sự tác động của thực tiễn phát triển kinh tế, xã hội làm cho nhu cầu của thị trường lao động ngành nghề thường xuyên biến đổi. Điều này dẫn đến số lượng học sinh vào học các ngành nghề thường biến động theo từng năm, từng giai đoạn, thậm chí từng mùa vụ. Do đó, các nhà trường khó dự đoán, khó quy hoạch đầu tư mua sắm trang thiết bị đảm bảo cho hoạt động đào tạo.
Cơ chế quản lý chưa ổn định, thiếu đồng bộ. Hệ thống trường nghề đang trong quá trình chuyển đổi từ quản lý của Bộ Giáo dục và Đào tạo sang quản lý của Bộ Lao động, Thương binh và xã hội. Cùng với quá trình đó là sự thay đổi về cơ chế quản lý trong đào tạo nghề. Điều này gây mất ổn định về tổ chức, về tinh thần, tâm lý của các lực lượng cán bộ giảng viên. Quá trình chuyển đổi, sáp nhập vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực đến tất cả các khâu, các bước tổ chức hoạt động đào tạo. Sự giao thoa giữa cơ chế quản lý mới với cơ chế quản lý cũ chưa đồng bộ, đôi khi còn có sự mâu thuẫn trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện ở các nhà trường, các bộ ngành khác nhau. Việc phối hợp giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo với Bộ Lao động Thương binh và Xã hội trong quản lý các lớp học văn hóa trong nhà trường trung cấp còn lúng túng.
Tổ chức đào tạo ở các nhà trường chậm đổi mới, chưa theo kịp yêu cầu của thực tiễn. Các nhà trường chưa cập nhật lý thuyết GDNN hiện đại. Chương trình, nội dung GDNN chậm đổi mới, chưa cập nhật sự vận động, phát triển của thực tiễn các doanh nghiệp. Phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục chủ yếu dựa theo kinh nghiệm. Quy trình tổ chức đào tạo về cơ bản vẫn hướng vào rèn luyện kỹ năng, kỷ xảo, chưa hướng vào rèn luyện và phát triển năng lực cá nhân của học sinh. Các giải pháp tổ chức đổi mới nội dung, phương pháp GDNN ở các nhà trường thiếu tính đồng bộ, hiệu quả chưa cao.
Năng lực quản lý của cán bộ các cấp trong nhà trường còn hạn chế. Một phần đông cán bộ quản lý chưa cập nhật lý luận về dạy học hiện đại. Các hoạt động quản lý đào tạo vẫn được thực hiện theo phương thức cũ. Mục tiêu dạy học chủ yếu vẫn là trang bị kiến thức và rèn luyện kỹ năng thực hành nghề chung cho cả lớp. Chưa phân cấp được mục tiêu, chưa đa dạng hóa nội dung và phương pháp dạy học theo năng lực của người học. Người học chủ yếu được trang bị về kỹ năng thành thạo tay nghề, chưa được trang bị các kỹ năng ứng biến với sự phát triển của nghề trong thực tiễn. Vì vậy, khi công nghệ thay đổi, một số nghề cũ mất đi, người học lúc đó sẽ gặp nhiều khó khăn chuyển đổi sang lĩnh vực khác.
Cơ chế phối hợp giữa nhà trường với các doanh nghiệp và các cơ sở sản xuất hiệu quả thấp. Đây là nguyên nhân dẫn đến khó khăn trong quá trình thực tập nghề và tìm đầu ra cho học sinh tốt nghiệp. Các doanh nghiệp nhận học viên về thực tập với tư cách là nhận người lao động nhân công giá thấp. Các doanh nghiệp này thường không coi trọng mục tiêu đào tạo tay nghề và sử dụng lao động lâu dài. Một số doanh nghiệp chất lượng cao không nhận học viên thực tập học việc. Đó là một mâu thuẫn đặt ra trong quản lý đào tạo nghề hiện nay.
4. Định hướng phát triển giáo dục nghề nghiệp
4.1. Quan điểm phát triển GDNN giai đoạn 2021-2030
Một là, phát triển GDNN phải được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thích ứng với những biến đổi nhanh chóng của thị trường lao động, đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, hội nhập quốc tế và phát triển bền vững của đất nước, nhằm tăng năng suất lao động và năng lực cạnh tranh quốc gia trong tình hình mới.
Hai là, đổi mới và nâng cao chất lượng GDNN cần chú trọng cả quy mô, cơ cấu và chất lượng đào tạo đồng bộ với đổi mới căn bản toàn diện về giáo dục và đào tạo; kế thừa và phát huy những thành tựu đã đạt được, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam, bảo đảm tính ổn định của hệ thống nhưng cần tầm nhìn dài hạn; nâng chất lượng GDNN từng bước đạt chuẩn khu vực và quốc tế để đáp ứng nhu cầu nhân lực trong nước và hội nhập với thị trường lao động khu vực và thế giới.
Ba là, phát triển hệ thống GDNN theo hướng mở, đa dạng, linh hoạt, hiện đại, chất lượng, hiệu quả, dễ tiếp cận và công bằng, với nhiều phương thứcvà trình độ đào tạo nhằm đáp ứng nhu cầu học tập và nâng cấp kỹ năng năng nghề nghiệp suốt đời của người lao động để đáp ứng yêu cầu của vị trí làm việc, giảm tình trạng thất nghiệp và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động, cải thiện thu nhập và đời sống cho người lao động; Phát triển hệ thống GDNN cần sự tham gia của Nhà nước với ưu tiên bố trí ngân sách cho GDNN trong tổng chi ngân sách nhà nước cho giáo dục và đào tạo; sự tham gia của các đối tác trong và ngài nước.
Bốn là, đào tạo nghề nghiệp phải đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp, có sự gắn kết chặt chẽ giữa cơ sở GDNN và doanh nghiệp. Lấy sự chấp nhận của thị trường lao động là thước đo của hiệu quả GDNN; nâng chất lượng GDNN từng bước đạt chuẩn chất lượng khu vực và quốc tế để đáp ứng nhu cầu nhân lực trong nước và hội nhập với thị trường lao động khu vực và thế giới cũng như thích ứng với CMCN 4.0. Thực hiện chuyển số, ứng dụng CNTT mạnh mẽ hơn nữa trong quản lý, điều hành và tổ chức đào tạo. Chú trọng đào tạo thường xuyên, đào tạo cập nhật, đào tạo lại và đào tạo tại doanh nghiệp để phù hợp với yêu cầu của doanh nghiệp nhằm duy trì việc làm bền vững cho người lao động và nhu cầu sử dụng nhân lực của doanh nghiệp;
Năm là, GDNN là dịch vụ công cơ bản, thiết yếu được ưu tiên trong tổng chi ngân sách nhà nước cho giáo dục và đào tạo. Ngân sách nhà nước tập trung đầu tư cho trường chất lượng cao, các cơ sở GDNN chuyên biệt tại các vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, các ngành, nghề đặc thù và các đối tượng chính sách. Nhà nước có chính sách đầu tư phát triển GDNN đối với các vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa và các đối tượng chính sách, đối tượng dễ bị tổn thương, tạo cơ hội cho mọi người lao động học nghề, lập nghiệp, góp phần xóa đói, giảm nghèo thực hiện công bằng xã hội.
4.2. Mục tiêu phát triển GDNN đến năm 2025 và năm 2030
Mục tiêu chung, cần phát triển hệ thống GDNN theo hướng mở, linh hoạt, chất lượng, hiệu quả, dễ tiếp cận, công bằng và bền vững. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về quy mô, chất lượng và hiệu quả của GDNN. Phấn đấu đến năm 2030, GDNN Việt Nam tiếp cận trình độ các nước ASEAN - 4. Trong đó, một số mục tiêu cụ thể chiến lược hướng tới là:
Về quy mô tuyển sinh, năm 2025 phấn đấu tăng gấp 2 lần hiện nay, đến năm 2030 tăng gấp 3 lần hiện nay với cơ cấu ngành, nghề và trình độ đào tạo phù hợp cho thị trường lao động hiện tại và chuẩn bị cho 5 - 10 năm tới, thậm chí dài hơi hơn. Chất lượng và hiệu quả đào tạo phải nâng lên, phấn đấu ít nhất 90% người học sau khi tốt nghiệp có việc làm theo đúng nghề, trình độ đào tạo hoặc làm việc có năng suất, thu nhập cao hơn sau đào tạo.
Về mạng lưới, phát triển hệ thống cơ sở giáo dục nghề nghiệp theo hướng mở và linh hoạt, chuẩn hoá, hiện đại hoá, có phân tầng chất lượng. Nhà nước tập trung đầu tư một số cơ sở giáo dục nghề nghiệp chất lượng cao và các cơ sở giáo dục nghề nghiệp cho các nhóm đối tượng đặc thù. Phấn đấu đến năm 2025 có khoảng 70 trường được đánh giá, công nhận trường cao đẳng chất lượng cao, trong đó 3 trường tiếp cận trình độ các nước phát triển trong nhóm G20, 40 trường tiếp cận trình độ các nước ASEAN - 4; đến năm 2030 có khoảng 100 trường được kiểm định, đánh giá, công nhận đạt tiêu chí của trường chất lượng cao, trong đó 15 trường tiếp cận trình độ các nước phát triển trong nhóm G20; 50 trường tiếp cận trình độ các nước ASEAN-4. Giáo dục nghề nghiệp Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực ASEAN.
4.3. Định hường giải pháp phát triển GDNN từ nay đến năm 2030
- Hoàn thiện thể chế, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp.
- Đẩy nhanh chuyển đổi số, hiện đại hóa cơ sở vật chất thiết bị và đổi mới chương trình, phương thức đào tạo.
- Phát triển đội ngũ nhà giáo, nghệ nhân, chuyên gia, người dạy nghề và cán bộ quản lý trong giáo dục nghề nghiệp.
- Gắn kết chặt chẽ giáo dục nghề nghiệp với doanh nghiệp và thị trường lao động.
- Nghiên cứu ứng dụng khoa học và chuyển giao công nghệ; hướng nghiệp, khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo.
- Tăng cường huy động và nâng cao hiệu quả đầu tư tài chính cho giáo dục nghề nghiệp.
- Truyền thông, nâng cao hình ảnh, thương hiệu và giá trị xã hội của giáo dục nghề nghiệp.
- Chủ động và nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế về giáo dục nghề nghiệp.
Để thực hiện được các giải pháp trên đây thì việc hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách phải đi trước một bước, cùng với đó là ưu tiên đầu tư cho GDNN, đây là giải pháp quan trọng nhất. Theo đó, phải bổ sung hoàn thiện chính sách cho các đối tượng tham gia GDNN gồm người học, người dạy, cơ sở GDNN và đặc biệt là huy động được lực lượng đông đảo doanh nghiệp tham gia GDNN; xây dựng mô hình đào tạo phù hợp với bối cảnh nước ta, hình thành mô hình giáo dục chia sẻ để nâng cao hiệu quả đầu tư. Đồng thời, cần hiện thực hóa chính sách của Nhà nước về phát triển GDNN trong Điều 6 của Luật GDNN: “Đầu tư cho GDNN được ưu tiên trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phát triển nhân lực. Ngân sách cho GDNN được ưu tiên trong tổng chi ngân sách nhà nước dành cho giáo dục, đào tạo” để tạo đột phá về quy mô và chất lượng GDNN.
Ngoài ra, trong thời đại của cuộc CMCN 4.0, chắc chắn không thể thiếu việc thực hiện chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và hoạt động đào tạo. Do đó, GDNN phải xây dựng các chương trình đào tạo chuyển đổi số cho đội ngũ cán bộ nhà nước, cán bộ quản
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2016), Nâng cao chất lượng dạy nghề đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động và hội nhập quốc tế, Báo cáo đề dẫn Hội thảo khoa học.
2. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2016), Thông tư quy định về điều lệ trường trung cấp, Số: 47/2016/TT-BLĐTBXH, ngày 28 tháng 12 năm 2016.
3. Chính phủ (2012), Chiến lược phát triển dạy nghề thời kỳ 2011 - 2020, Quyết định 630/QĐ-TTg ngày 29/5/2012.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Văn kiện Hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành Trung ương Khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Tập II, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.
6. Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014), Luật Giáo dục nghề nghiệp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2019), Luật giáo dục, Luật số 43/2019/QH14, ngày 14 thánh 6 năm 2019
PGS.TS Thân Văn Quân
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng