SÁNG MÃI TINH THẦN “QUYẾT TỬ ĐỂ TỔ QUỐC QUYẾT SINH”
TCGCVN - Ngày 10/10/1954, các đơn vị Quân đội nhân dân Việt Nam tiến vào tiếp quản Thủ đô Hà Nội từ năm cửa ô. Sự kiện lịch sử đó mở ra một thời kỳ mới vẻ vang trong lịch sử nghìn năm văn hiến của Thăng Long-Đông Đô-Hà Nội.
Sáng 10/10/1954, các cánh quân của Quân đội nhân dân Việt Nam từ các cửa ô tiến vào tiếp quản Thủ đô được giải phóng trong rừng cờ hoa đón chào của 20 vạn người dân Hà Nội.
Ảnh: Tư liệu TTXVN
Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, ngày 20/7/1954 Hiệp định Giơnevơ về đình chiến ở Đông Dương đã được ký kết. Theo các điều khoản của Hiệp định và thỏa thuận tại Hội nghị quân sự Trung Giã giữa đoàn đại biểu của Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam và Bộ Tổng Chỉ huy Quân đội Pháp ở Đông Dương, Hà Nội tiếp tục nằm trong vùng tập kết của quân đội Pháp 80 ngày. Lợi dụng tình hình đó, quân Pháp tìm mọi cách phá hoại thành phố nhằm thực hiện âm mưu làm cho Hà Nội trống rỗng, hỗn loạn trước khi chuyển giao cho ta; đồng thời làm giảm uy tín của Chính phủ kháng chiến đối với nhân dân và quốc tế. Thực dân Pháp còn lập “Ủy ban di cư”, đưa Ngô Đình Diệm ra Hà Nội, thúc đẩy bọn tay sai thực hiện kế hoạch di chuyển tài sản, máy móc, nguyên liệu ở các công sở, xí nghiệp, kho tàng và cưỡng ép nhân dân di cư vào Nam. Trong khi đó, đế quốc Mỹ lăm le hất cẳng Pháp để xâm chiếm Việt Nam và hỗ trợ cho thực dân Pháp nhiều phương tiện, trang bị để thực hiện những âm mưu nham hiểm của chúng.
Mặc dù quân Pháp rắp tâm phá hoại việc thực hiện Hiệp định chuyển giao Hà Nội đã ký kết giữa ta và Pháp, nhưng nhân dân Hà Nội luôn sát cánh cùng các lực lượng vũ trang sẵn sàng tiếp quản Thủ đô. Chính phủ phái các đội công an, trật tự, cảnh vệ, hành chính vào Hà Nội để chuẩn bị tiếp quản thành phố. Theo Nghị quyết ngày 17/9/1954 của Hội đồng Chính phủ, Ủy ban quân chính thành phố Hà Nội được thành lập do thiếu tướng Vương Thừa Vũ, Tư lệnh Đại đoàn 308 (Đại đoàn Quân Tiên phong, sau này là Sư đoàn 308) làm Chủ tịch và bác sĩ Trần Duy Hưng làm Phó Chủ tịch.
Đại đoàn Quân Tiên phong được Trung ương Đảng và Chính phủ giao nhiệm vụ tiếp quản thành phố Hà Nội, trong đó có Trung đoàn Thủ đô (Trung đoàn 102). Trên đường về tiếp quản Thủ đô, một số cán bộ, chiến sĩ của Đại đoàn được lệnh triệu tập tới gặp Bác Hồ ở Đền Hùng (thuộc xã Hy Cương, tỉnh Phú Thọ). Tại đây, Người căn dặn: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Lời căn dặn của Bác đã khẳng định công lao to lớn của các Vua Hùng; đồng thời khái quát cả mấy nghìn năm lịch sử rạng rỡ dựng nước phải đi đôi với giữ nước. Đó là quy luật tồn tại muôn đời của đất nước Lạc Hồng và sự trường tồn của cả dân tộc Việt Nam.
Lời căn dặn của Bác là lời của núi sông nghìn năm vọng về, không chỉ dành cho Đại đoàn Quân Tiên phong, mà cho cả các lực lượng vũ trang Thủ đô, cho toàn quân và cả dân tộc ta. Đầu tháng 10/1954, từ Chiến khu Việt Bắc về Thủ đô Hà Nội, vượt qua sông Hồng, Bác Hồ và Văn phòng Chính phủ đã đến thị trấn Sơn Tây. Tại đây, Người trực tiếp theo dõi tình hình và chỉ đạo mọi hoạt động cho ngày Thủ đô được giải phóng. Người đã viết nhiều bài có tầm vóc lịch sử, như “Lời kêu gọi nhân ngày Thủ đô giải phóng”, “Giữ gìn trật tự an ninh”, “Ổn định sinh hoạt”,... nhằm động viên đến từng giới, từng ngành, từng lứa tuổi, công chức, giáo viên, học sinh, thanh niên, công nhân, bác sĩ, bộ đội, công an, giới tu hành của các tôn giáo,... cùng nhau đoàn kết để tái thiết, xây dựng và bảo vệ Thủ đô Hà Nội sau ngày giải phóng.
Sáng ngày 9/10/1954, lực lượng quân đội ta theo năm cửa ô chính vào tiếp quản Thủ đô do các tổ tự vệ, trinh sát công an hoạt động nội thành dẫn đường, rồi từ đó tỏa đi tiếp quản Nhà ga, Phủ Toàn quyền, khu Đồn Thủy, khu Bờ Hồ, Phủ Thống sứ. Bộ đội ta tiến đến đâu, nhân dân đổ ra hai bên đường, phất cờ hoa, reo mừng không ngớt. Cổng chào, khẩu hiệu dựng lên khắp các đường phố, ngõ xóm, cờ đỏ sao vàng rực rỡ khắp các phố phường, tầng nhà. Đúng 16 giờ ngày 9/10/1954, quân đội Liên hiệp Pháp rời khỏi thành phố, lặng lẽ rút sang phía Bắc cầu Long Biên để rời Hà Nội từ sân bay Gia Lâm, hay theo đường bộ ra Cảng Hải Phòng, di chuyển theo đường biển vào phía Nam vĩ tuyến 17. Đến 16 giờ 30 phút cùng ngày, quân đội ta hoàn toàn kiểm soát thành phố Hà Nội, tiếp quản thành phố nhanh chóng và trật tự. Sáng ngày 10/10/1954, Ủy ban quân chính thành phố và các đơn vị quân đội từ các cửa ô mở cuộc hành quân lịch sử vào Hà Nội. Trung đoàn Thủ đô từng lập nhiều chiến công oanh liệt và ra đời ở Liên khu I, vinh dự giương cao lá cờ “Quyết chiến, Quyết thắng”, dẫn đầu đoàn quân chiến thắng trở về giải phóng Thủ đô trong tiếng nhạc hùng tráng, giữa rừng hoa, rừng cờ, ảnh Bác Hồ và tình cảm thắm thiết của hơn 20 vạn nhân dân Hà Nội. Quân và dân Thủ đô Hà Nội hân hoan trong niềm vui giải phóng.
Đúng 15 giờ ngày 10/10/1954, còi Nhà hát Lớn thành phố nổi một hồi dài. Hàng chục vạn nhân dân Thủ đô và các đơn vị quân đội trang nghiêm dự lễ chào cờ Tổ quốc do Ủy ban quân chính tổ chức tại sân vận động Cột Cờ. Trong lễ chào cờ, Thiếu tướng Vương Thừa Vũ, Chủ tịch Ủy ban quân chính Hà Nội trân trọng đọc lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào Thủ đô nhân ngày giải phóng. Trong thư Bác viết: “Tám năm qua, Chính phủ phải xa rời Thủ đô để kháng chiến cứu nước. Tuy xa nhau, nhưng lòng Chính phủ luôn luôn gần cạnh đồng bào. Ngày nay, do nhân dân ta đoàn kết, nhất trí, quân đội ta chiến đấu anh dũng, hòa bình đã thắng lợi, Chính phủ lại trở về Thủ đô với đồng bào. Muôn dặm một nhà, lòng vui khôn xiết kể”. Trong niềm vui chung, Người không quên căn dặn đồng bào: “Sở dĩ Thủ đô giữ gìn được tình trạng như ngày nay là do đồng bào ta hăng hái phấn đấu. Tuy vậy, từ nay, Chính phủ và nhân dân ta phải cùng nhau cố gắng nhiều để khôi phục, củng cố và phát triển đời sống tinh thần và vật chất của Thủ đô ta”.
Ngày 01/01/1955, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, sau 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược thắng lợi, nhân dân Thủ đô Hà Nội làm lễ mừng Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ về lại Thủ đô. Kể từ đây, kinh đô Thăng Long - Hà Nội thật sự trở thành Thủ đô hòa bình bền vững của nhân dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh. Nhân dân cả nước hân hoan, vui mừng cùng nhân dân Thủ đô Hà Nội. Lịch sử đất nước đã sang một trang mới.
Đồng hành cùng các lực lượng tiến vào tiếp quản Thủ đô Hà Nội, lực lượng vũ trang Thủ đô đã kế thừa và phát huy truyền thống anh hùng, bất khuất chống giặc ngoại xâm của dân tộc, truyền thống “Thăng Long - Hà Nội nghìn năm văn hiến”, cùng các tầng lớp nhân dân Thủ đô viết nên trang sử hào hùng trong thời đại mới của dân tộc. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, lực lượng vũ trang Thủ đô đã kiên trì trụ vững, bám dân, bám đất, xây dựng cơ sở, dựa vào dân chiến đấu và chiến đấu với tinh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”. Nhiều trận đánh tiêu biểu của lực lượng vũ trang Thủ đô đã để lại những bài học kinh nghiệm quý cho chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện, góp phần tạo ra bước ngoặt quan trọng trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Lời khen tặng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh” dành cho cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Thủ đô thể hiện sự tiếp nối truyền thống dựng nước đi đôi với giữ nước trong mấy nghìn năm lịch sử của dân tộc ta; là biểu tượng của ý chí, tinh thần xả thân vì nước, quyết tâm bảo vệ, giữ vững nền độc lập, tự do của Tổ quốc của lớp lớp cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Thủ đô trong bước ngoặt lịch sử dân tộc.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, lực lượng vũ trang Thủ đô vừa sản xuất, vừa tăng cường chi viện cho các chiến trường, dũng cảm, kiên cường, mưu trí, sáng tạo, đã phối hợp chặt chẽ với các lực lượng chiến đấu và đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ. Trong 12 ngày đêm cuối tháng 12/1972, trên địa bàn Hà Nội, đế quốc Mỹ đã huy động tối đa sức mạnh không lực để đánh phá hủy diệt Hà Nội, nhằm biến Hà Nội về “thời kỳ đồ đá”. Chúng đã sử dụng 444 lần máy bay B.52, hơn 1.000 lần máy bay chiến thuật, trong đó có hàng trăm lần chiếc F111, ném khoảng 10.000 tấn bom đạn hòng đánh phá, hủy diệt Thủ đô Hà Nội. Quân và dân Hà Nội đã phối hợp hiệp đồng chặt chẽ, hiệu quả với các lực lượng, chiến đấu kiên cường, dũng cảm lập nên kỳ tích “Điện Biên Phủ trên không”, làm tiêu tan sức mạnh của không lực Hoa Kỳ. Thủ đô Hà Nội không trở về “thời kỳ đồ đá” mà đã trở thành “Thủ đô lương tri và phẩm giá con người”. Chiến thắng vang dội của quân và dân Thủ đô Hà Nội trong 12 ngày đêm đã góp phần rất quan trọng buộc đế quốc Mỹ phải ký kết Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Chính phủ Mỹ phải cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; quân Mỹ và quân chư hầu buộc phải rút hết khỏi miền Nam.
Trong công cuộc đổi mới đất nước gần 40 năm qua, lực lượng vũ trang Thủ đô luôn nỗ lực vượt mọi khó khăn, nâng cao sức mạnh chiến đấu, xây dựng nền quốc phòng toàn dân ở địa phương vững mạnh, xây dựng khu vực phòng thủ thành phố vững chắc, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.
Tự hào và phát huy truyền thống “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, Lực lượng vũ trang Thủ đô Hà Nội, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ và Chính quyền thành phố, cùng với các tầng lớp nhân dân Thủ đô chung sức, đồng lòng xây dựng thành phố Hà Nội ngày càng văn minh, hiện đại, xứng đáng với tầm vóc Thủ đô nghìn năm văn hiến với những danh hiệu: “Thủ đô Anh hùng”, “Thành phố vì hòa bình”, “Thành phố sáng tạo” của nhân dân Việt Nam./.
NGUYỄN ĐỨC THẮNG
Viện Nghiên cứu hợp tác phát triển giáo dục