1. Nghiên cứu & kinh nghiệm
  2. >
  3. Giáo dục Việt Nam

NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI GÓP PHẦN TÔ THẮM TRUYỀN THỐNG VẺ VANG  80 NĂM CỦA NỀN GIÁO DỤC CÁCH MẠNG VIỆT NAM

07:52 | 16/06/2025
aA

 

 

Thiếu tướng, TS Phùng Thị Phú

Phó Cục trưởng Cục Quân huấn, Nhà trường quân đội

1. Mở đầu

Nhà trường quân đội là một bộ phận trong hệ thống giáo dục chung của cả nước. Quá trình hình thành, phát triển của Nhà trường quân đội gắn liền với các giai đoạn hình thành, phát triển của nền giáo dục cách mạng Việt Nam. Ngay từ khi mới thành lập và trong suốt quá trình chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lần lượt tổ chức ra các đội vũ trang cách mạng, các nhóm tổ chức quân sự đầu tiên của mình. Cùng với đó, các lớp giáo dục, huấn luyện quân sự cũng lần lượt ra đời. Đó là tiền thân của nhà trường quân đội cách mạng Việt Nam.

Quá trình hình thành, phát triển của nhà trường quân đội trong thời kỳ tiền khởi nghĩa cũng là quá trình hình thành của nền giáo dục cách mạng Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, những quan điểm, tư tưởng về xây dựng nền giáo dục cách mạng hoàn toàn Việt Nam trước hết được thể nghiệm trong thực tiễn giáo dục, huấn luyện quân đội từ khi chưa giành được chính quyền cách mạng.   

Ngày nay, hệ thống Nhà trường quân đội đã hòa nhập vào mạng lưới nhà trường chung của cả nước. Các nhà trường sĩ quan, các học viện đã được xây dựng chính quy, hiện đại, nhiều trường được nâng cấp chuẩn hóa theo quy chuẩn của trường đại học trong hệ thống các trường đại học của quốc gia. Đồng thời với nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực cho quân đội, Nhà trường quân đội còn tham gia đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Hệ thống Nhà trường quân đội đã và đang góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

 

Nhân dịp kỷ niệm 80 năm nền giáo dục cách mạng Việt Nam, cũng là dịp để mỗi chúng ta nhìn nhận lại quá trình hình thành, trưởng thành và phát triển của Nhà trường quân đội trong 80 năm qua. Càng tự hào về 80 năm nền giáo dục cách mạng Việt Nam bao nhiêu, chúng ta càng tự hào về Nhà trường quân đội bấy nhiêu.

2. Nội dung nghiên cứu

2.1. Trường Quân chính kháng Nhật – Nhà trường đầu tiên của quân đội cách mạng

Quá trình hình thành, phát triển mở rộng về quy mô và chất lượng của các tổ chức quân sự cách mạng cùng với sự hình thành, phát triển của các lớp giáo dục, huấn luyện quân sự trong thực tiễn vừa tạo ra điều kiện, vừa đặt ra nhu cầu cho sự hình thành nhà trường quân đội. Trước yêu cầu cấp thiết của thực tiễn, ngày 15 tháng 4 năm 1945, Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ đã họp ra Nghị quyết về việc mở Trường Quân chính kháng Nhật. Sau một thời gian chuẩn bị, đến đầu tháng 6 năm 1945, Trường Quân chính kháng Nhật được thành lập tại khu vực xóm Khuổi Kịch, thuộc xã Tân Trào, châu Tự Do (nay là huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang). Đây là trường quân sự cách mạng đầu tiên của quân đội ta.

Về tổ chức, Ban giám hiệu nhà trường gồm 4 đồng chí. Đồng chí Hoàng Văn Thái được chỉ định làm giám đốc, đồng chí Thanh Phong (tức Nguyễn Tri Phương) làm phó giám đốc đầu tiên của trường. Các đồng chí Trương Văn Linh và Nguyễn Văn Lý (tức Hoàng Hữu Kháng) được phân công phụ trách công tác đảm bảo vật chất của trường.

Cán bộ khung của trường là các đồng chí đã được đào tạo qua trường quân sự Quảng Tây và có kinh nghiệm thực tiễn huấn luyện, chiến đấu.

Trường có nhiệm vụ đào tạo trung đội trưởng và chính trị viên trung đội. Đối tượng học viên gồm các đội viên hoặc cán bộ đã được thử thách trong giải phóng quân và một số thanh niên do các đoàn thể Cứu quốc giới thiệu đến.

Ngày 25 tháng 6 năm 1945, nhà trường khai giảng khoá 1. Số lượng học viên gồm 82 đồng chí. Buổi lễ khai giảng đơn giản nhưng rất trang nghiêm. Sau lễ khai giảng, việc giảng dạy được bắt đầu ngay. Cuối tháng 7 năm 1945, khoá 1 bế giảng. Từ giữa tháng 7 năm 1945 khoá 2 đã khai giảng. Số lượng học viên của khoá 2 là 85 đồng chí. Khoá 3 gồm 67 học viên, được khai giảng sau khoá 2 khoảng 2 tuần.

Nội dung chương trình đào tạo được nhà trường xác định rằng việc giáo dục chính trị, xây dựng tư tưởng, rèn luyện đạo đức, tác phong cách mạng cho học viên là phần cơ bản của nội dung học tập. Các học viên được học tập về chương trình mặt trận Việt Minh, về đường lối chính sách của Đảng và những bài về công tác chính trị trong quân đội, về kinh nghiệm công tác vận động quần chúng, công tác vũ trang tuyên truyền, tổ chức gây dựng cơ sở quần chúng, công tác bí mật,...

Về quân sự, nhà trường đặc biệt coi trọng việc huấn luyện chiến thuật du kích, cách đánh phục kích, tập kích, quấy rối. Các học viên được học tập đội ngũ và các kỹ thuật bắn súng, đâm lê, ném lựu đạn, sử dụng vũ khí thô sơ. Đồng thời các học viên cũng được học tập về tiểu đội và trung đội chiến đấu.

Nhìn chung, nội dung chương trình các môn học đều ngắn gọn, dễ hiểu và thiết thực, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ chính trị của quân đội lúc bấy giờ.

Tài liệu học tập là các tác phẩm quân sự của Hồ Chí Minh, các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và cuốn "Người chính trị viên" của đồng chí Phạm Văn Đồng, cuốn "Công tác chính trị trong quân đội cách mạng" của đồng chí Võ Nguyễn Giáp. Ngoài ra, kinh nghiệm thực tế chiến đấu, công tác của các đơn vị và cá nhân cũng được xem là nguồn tài liệu thiết thực cho việc giáo dục, huấn luyện học viên.

Phương pháp giảng dạy và học tập chủ yếu là các phương pháp thực hành, thực tập, ứng dụng trong thực tế. Đối với các môn chính trị, sau khi nghe giảng, học viên được tự học, thảo luận và thực hành ngay trong sinh hoạt tập thể của trường. Đối với các môn quân sự, giáo viên vừa giảng vừa làm động tác mẫu, chủ yếu dành thời gian cho học viên luyện tập. Vì không có giáo viên chuyên trách nên các đồng chí trong ban Giám hiệu, cán bộ khung đều tham gia giảng dạy. Đồng chí Phạm Văn Đồng và đồng chí Võ Nguyên Giáp trực tiếp giảng dạy một số bài về chính trị. Nhà trường đã chú ý kết hợp việc giảng dạy, học tập với rèn luyện, lao động và chiến đấu. Mặc dù các điều kiện đảm bảo vật chất còn nhiều thiếu thốn nhưng nhà trường vẫn thực hiện nghiêm chỉnh nền nếp sinh hoạt chính quy, duy trì chặt chẽ giờ giấc học tập, nghỉ ngơi, trật tự, vệ sinh, tập thể dục sáng, điểm danh tối, chào cờ hàng tuần, v.v...

Ngoài nhiệm vụ học tập, rèn luyện, các học viên còn tăng gia sản xuất, lấy củi và tự làm lấy mọi việc phục vụ cho sinh hoạt hàng ngày. Đặc biệt, tháng 6 năm 1945, nhà trường còn tham gia phối hợp với lực lượng vũ trang địa phương chiến đấu tiêu diệt gần 100 tên phỉ, thu toàn bộ vũ khí.

2.2. Nhà trường quân đội trong những năm đầu của chính quyền cách mạng

Cách mạng tháng Tám thắng lợi. Ngày 2 tháng 9 năm 1945 nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, chính phủ lâm thời được thành lập. Dân tộc Việt Nam bước vào thời đại mới - thời đại nhân dân Việt Nam thực sự làm chủ vận mệnh của mình.

Ngay từ những ngày đầu tiên mới ra đời, chính quyền cách mạng non trẻ đã phải đương đầu với những thử thách vô cùng khó khăn quyết liệt. Trước muôn vàn công việc khó khăn, phức tạp, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh  đã phân tích tình hình thế giới, trong nước và đề ra chủ trương cấp bách mở chiến dịch tiêu diệt giặc đói, giặc dốt, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố chính quyền, bài trừ nội phản, ổn định tình hình, chuẩn bị lực lượng sẵn sàng đối phó với kẻ thù.

Về quân sự, ngày 22 tháng 5 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 71 về việc quyết định Vệ quốc quân chính thức trở thành quân đội quốc gia của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Quân đội ta bước vào thời kỳ mới, thời kỳ trưởng thành và phát triển. Để xứng đáng với danh hiệu "Quân đội quốc gia" và để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài, việc giáo dục nâng cao trình độ mọi mặt của bộ đội có vai trò rất quan trọng.

Nhiệm vụ quân sự lúc này là vừa đối phó với các loại kẻ thù vừa phải cấp tốc chuẩn bị lực lượng căn bản của cách mạng, thực hiện chủ trương "vũ trang nhân dân", "Mở rộng quân giải phóng" [4, tr.305] , "Đào tạo cán bộ quân sự. Lập thêm trường quân sự, thống nhất chương trình dạy" [4, tr.310] . Lần đầu tiên đến thăm Bộ Tổng tham mưu, ngày 20 tháng 12 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở nhiệm vụ của quân đội lúc này là "phải coi trọng công tác huấn luyện, chú ý giúp đỡ trường quân chính Trung ương và các chiến khu đào tạo khẩn trương cán bộ, phải hướng dẫn các đơn vị, các địa phương huấn luyện, thiết thực, nhất là coi trọng huấn luyện cách đánh du kích, tránh "một hai, một hai hình thức" [1, tr.44-45] .

Ngày 19 tháng 10 năm 1946, Hội nghị quân sự toàn quốc của Đảng đã quyết định đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng lực lượng vũ trang, chú trọng nhất là chất lượng. Hội nghị đề ra chủ trương Thống nhất trường huấn luyện. Ngoài ra, hội nghị còn đề xuất nhiều biện pháp chung quanh vấn đề đào tạo cán bộ cho quân đội quốc gia, huấn luyện, xây dựng các lực lượng vũ trang, phát triển bộ đội chủ lực. Những biện pháp đó là: "phải có một trường huấn luyện chuyên về cán bộ dân quân, phải nâng cao chất lượng cho bộ đội bằng cách viết sách nhỏ và  chương trình huấn luyện", "Mở lớp huấn luyện cho cán bộ quân nhu", "Phải đi tới sự đào tạo những  bác sĩ chuyên môn trong bộ đội", "Mở trường huấn luyện chính trị viên" [5, tr.58-60] .

Như vậy, trước khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược bùng nổ trên toàn quốc, mặc dù có rất nhiều công việc cấp bách phải giải quyết, song Đảng ta đã đề ra những chủ trương, biện pháp nhằm tranh thủ thời gian khẩn cấp đào tạo đội ngũ cán bộ làm nòng cốt cho việc xây dựng quân đội quốc gia, chuẩn bị lực lượng căn bản cho cuộc kháng chiến lâu dài.

Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về lập thêm trường đào tạo cán bộ quân sự, đồng thời để cấp tốc đào tạo cán bộ đáp ứng cho nhu cầu phát triển của các đơn vị quân đội chủ lực, các nhà trường quân sự lần lượt được tổ chức.

Nhiệm vụ chung của các trường là đào tạo cán bộ cấp tốc cho các lực lượng vũ trang nhân dân. Phương hướng tuyển lựa học viên chủ yếu là lấy cán bộ chính trị trong các đoàn thể cứu quốc, cán bộ, chiến sĩ trong các đơn vị bộ đội và tự vệ có thành tích công tác và chiến đấu. Nội dung chương trình huấn luyện của các trường bao gồm hai phần là chính trị  và quân sự. Phương pháp huấn luyện, các trường đều thực hiện phương thức đào tạo cấp tốc, ngắn ngày nên phương pháp huấn luyện chủ yếu là thực hành trên thao trường, bãi tập.

2.3. Nhà trường quân đội trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ xâm lược

Trong kháng chiến, cùng với quá trình phát triển của Quân đội, hệ thống nhà trường quân đội cũng từng bước được mở rộng về quy mô, phát triển về chất lượng, vươn lên tự khẳng định tính chất đặc thù của nhà trường thời chiến, tự xác định mục tiêu, nội dung, phương thức giáo dục, đào tạo của riêng mình, tích cực, chủ động đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng cho yêu cầu nhiệm vụ cấp thiết của chiến trường trong từng giai đoạn cụ thể. 

Ngay từ những ngày đầu tiên của cuộc kháng chiến, trong lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến và trong chỉ thị toàn dân kháng chiến, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra những vấn đề cơ bản về đường lối kháng chiến, khẳng định chủ trương: "Trường kỳ kháng chiến, toàn diện kháng chiến", "vừa đánh vừa võ trang thêm, vừa đánh vừa đào tạo thêm cán bộ" [5, tr.76] . Chủ trương đó có giá trị chỉ đạo xuyên suốt mọi kế hoạch xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, giáo dục - đào tạo cán bộ quân đội. Chủ trương đó liên tục được khẳng định lại, được cụ thể hoá trong các hội nghị của Đảng và quân đội trong từng giai đoạn phát triển của cuộc kháng chiến.

Thực hiện chủ trương "vừa đánh vừa đào tạo thêm cán bộ" trong những năm kháng chiến chống Pháp, hệ thống nhà trường quân đội lần lượt được khôi phục, mở rộng và thành lập mới. Cùng với sự phát triển của các đơn vị quân đội, hệ thống nhà trường quân đội được mở rộng, gồm các trường bổ túc cán bộ quân sự; các trường quân chính khu; các trường bồi dưỡng văn hoá; các lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chuyên môn nghiệp vụ các ngành. Cũng trong thời gian này một loạt các trường kỹ thuật quân sự được thành lập. Đặc biệt, ngày 13 tháng 7 năm 1947, Tổng chỉ huy quân đội ra Nghị định số 53/BCH về việc mở trường huấn luyện chính trị viên. Nghị định viết: "Nay mở tại cục chính trị một trường huấn luyện chính trị viên để đào tạo và bổ túc cán bộ đại đội và trung đội" [1, tr.56] . Ngày 10 tháng 5 năm 1949, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ký Nghị định số 65/NĐ, chính thức đặt tên trường Chính trị viên là Trường Nguyễn Trãi. Tiếp đó, tháng 7 năm 1951, Tổng quân ủy quyết định thành lập trường Chính trị trung cấp Quân đội nhân dân Việt Nam. Nhiệm vụ của trường là "giáo dục cho cán bộ trung cấp, cao cấp trong quân đội về đường lối nhiệm vụ của cách mạng, bản chất và nhiệm vụ quân đội, nâng cao ý thức giác ngộ giai cấp, giác ngộ dân tộc, xây dựng tư tưởng kháng chiến lâu dài, kiên quyết giành thắng lợi, nâng cao ý chí, sẵn sàng nhận hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao" [1, tr.82-83] .

Nhìn chung, hệ thống giáo dục của các nhà trường quân đội trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đã từng bước được mở rộng tương thích với sự phát triển của quân đội. Về mặt tổ chức giáo dục, đã hình thành nhiều lớp, nhiều trường với nhiều cấp học, ngành học khác nhau. Mỗi trường có nhiệm vụ và đặc điểm tổ chức khác nhau, nhưng chủ yếu vẫn là đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn, cấp tốc nhằm "cung cấp cho nhu cầu xây dựng và chiến đấu, chuẩn bị lực lượng dự trữ khi thời cơ đến, có điều kiện thì nhanh chóng mở rộng phát triển lực lượng" [1, tr.48]. Đó là một trong những mục tiêu quan trọng của ngành giáo dục quân sự kháng chiến.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, hệ thống nhà trường quân đội trong kháng chiến được xây dựng theo mô hình giáo dục hoàn toàn mới. Đó là mô hình giáo dục thời chiến, được hình thành do nhu cầu của chiến tranh, được thực hiện trong môi trường chiến tranh, hướng vào đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng cho nhu cầu của chiến tranh. Đặc trưng cơ bản của  nền giáo dục đó là vừa chiến đấu vừa giáo dục, huấn luyện bộ đội, đào tạo cán bộ, xây dựng lực lượng vũ trang, bảo vệ thành quả của cách mạng. Mục tiêu giáo dục phục vụ mục tiêu chiến đấu và xây dựng của quân đội trong từng giai đoạn kháng chiến. Nội dung giáo dục bao gồm văn hoá, quân sự, chính trị, phương châm là "cốt thiết thực chu đáo hơn tham nhiều", "chương trình ít lý thuyết, cần thực tế" [5, tr.115] . Phương pháp giáo dục mang tính thời chiến, ngắn gọn, lấy thực hành làm chính. Kết hợp lên lớp lý thuyết với thực hành, diễn tập. Phối hợp các hình thức giáo dục với các biện pháp tổ chức, rèn luyện thường xuyên cho bộ đội. Tổ chức nhà trường gọn nhẹ, tinh giảm. Giáo viên, huấn luyện viên đồng thời là cán bộ chỉ huy của các đơn vị và cán bộ lãnh đạo của Đảng.

Sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, từ năm 1955 đến 1964 là giai đoạn các nhà trường quân đội chuyển sang chế độ vừa xây dựng chính quy, vừa đào tạo cán bộ, chuẩn bị nhân lực cung cấp cho chiến trường miền Nam. Các nhà trường quân đội bắt đầu đào tạo các khóa chính quy dài hạn, đồng thời tranh thủ cử cán bộ đi học ở các trường quân sự nước ngoài và một số trường dân sự trong hệ thống Xã hội nghủ nghĩa.

Từ năm 1965 đế quốc Mỹ ồ ạt đưa quân vào miền Nam tiến hành chiến lược "Chiến tranh cục bộ" và mở rộng chiến tranh phá hoại bằng không quân ra miền Bắc. Tháng 3 năm 1965 Quân uỷ Trung ương đã xác định "chuyển hướng mạnh mẽ nội dung, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo kiểu thời chiến, lấy bồi dưỡng ngắn ngày, tập huấn kèm cặp trong thực tế chiến đấu và công tác là chủ yếu” [1, tr.142]. Các nhà trường quân đội lại chuyển hẳn sang đào tạo, bồi dưỡng cấp tốc, ngắn hạn. Cán bộ, giáo viên luân phiên đi thực tế chiến trường, học viên đi thực hành, thực tập tại đơn vị chiến đấu. Phương châm đào tạo của các nhà trường là làm cho học viên tốt nghiệp 3 trong một. Đó là tốt nghiệp tại nhà trường, tốt nghiệp tại thao trường và tốt nghiệp tại chiến trường. Chương trình, nội dung, phương pháp huấn luyện trong nhà trường sát chiến trường, phù hợp thời chiến. Việc cử cán bộ đi đào tạo ở nước ngoài cũng trở nên khó khăn hơn. Liên Xô và một số nước đã cử chuyên gia sang giúp Việt Nam xây dựng hệ thống nhà trường quân đội. Nhờ đó, trình độ khoa học nói chung và lý luận về giáo dục học quân sự nói riêng được nâng lên một bước.

Từ 1970 đến 1975 tiếp tục thực hiện nghị quyết 40/ĐUTW và nghị quyết 82/QUTW về công tác nhà trường quân đội, các trường chuyển dần từ đào tạo ngắn hạn, cấp tốc sang xen kẽ giữa ngắn hạn và dài hạn, từng bước nâng dần các khoá đào tạo dài hạn nhằm đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ cơ bản toàn diện, hệ thống đáp ứng yêu cầu tác chiến hợp đồng binh chủng, phát triển về tổ chức, trang bị và xây dựng chính quy của quân đội.

Nhìn chung, từ năm 1955 đến 1975, hệ thống nhà trường quân đội được từng bước xây dựng theo hướng chính quy, mở rộng cả quy mô và các loại hình đào tạo. Tuy nhiên, nội dung, phương pháp giáo dục, đào tạo của nhà trường vẫn được thực hiện theo nguyên tắc “Dạy và học những gì chiến tranh cần thiết”. Đây chính là thời kỳ hình thành và khẳng định của hệ thống giáo dục, đào tạo được xây dựng theo mô hình thời chiến, xuất phát từ nhu cầu của thực tiễn chiến tranh, luôn vận dụng, ứng biến tương thích với thực tiễn thời chiến. Hệ thống nhà trường quân đội đã tự mình vươn lên khẳng định thành mô hình giáo dục độc đáo của nhà trường quân đội trong thời chiến. Đó là hệ thống giáo dục quân sự mang bản sắc hoàn toàn Việt Nam.

Cở sở lý luận trong hoạt động dạy và học của các nhà trường quân đội trong thời kỳ này là triết lý giáo dục Hồ Chí Minh về xây dựng nền giáo dục quân đội cách mạng hoàn toàn Việt Nam. Mặc dù trong điều kiện chiến tranh, các nhà trường không được nghiên cứu đầy đủ, hệ thống về lý luận giáo dục, giáo viên không được đào tạo cơ bản về nghiệp vụ sư phạm; học sinh không được tuyển sinh theo tiêu chí về học vấn phổ thông nhưng dựa trên triết lý giáo dục Hồ Chí Minh mà các nhà trường quân đội đã phát triển cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu, đào tạo được đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng cho nhu cầu xây dựng, phát triển quân đội, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

2.4. Nhà trường quân đội trong hệ thống giáo dục quốc dân

Giai đoạn từ sau năm 1975 đến nay, tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến đổi mang tính bước ngoặt. Nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc đặt ra những yêu cầu mới. Nhà trường quân đội bước vào thời kỳ xây dựng chính quy theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa. Nhiệm vụ của các nhà trường vừa đào tạo cán bộ đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội lâu dài, vừa tham gia đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Thực hiện chủ trương của Đảng ủy Quân sự Trung ương, từ năm 1975 đến năm 1977, Bộ Quốc phòng đã tiến hành sắp xếp củng cố, thống nhất lại hệ thống nhà trường trong toàn quân. Trong thời gian này đã thành lập một số nhà trường, học viện mới: Trường Sĩ quan Lục quân 2 (10/1975); Học viện Quân sự cấp cao (2/1976); trường Sĩ quan Chính trị (1/1976), trên cơ sở hệ sơ cấp của Học viện Chính trị tách ra; trường Sĩ quan Phòng hoá (9/1976); trường Thiếu sinh quân (1/1977); trường Tài chính quân đội (3/1977) và một số trường quân chính, trường quân sự địa phương, trường kỹ thuật nghiệp vụ v.v... cũng được thành lập, sát nhập, thống nhất hoặc tách ra trong khoảng thời gian này.

Từ năm 1978 đến năm 1986, thời gian này nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, xây dựng quân đội cách mạng chính quy, hiện đại, nhu cầu phát triển đội ngũ cán bộ, hệ thống nhà trường đã có những bước phát triển mới tương đối hoàn chỉnh, đồng bộ. Từ năm 1979, các nhà trường quân đội được đặt trong hệ thống các trường chuyên nghiệp của Nhà nước. Cũng thời gian này, một số nhà trường quân đội được giao nhiệm vụ đào tạo sau đại học.

Từ sau năm 1986 thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI, hệ thống nhà trường quân đội được kiện toàn một bước phù hợp với tình hình tinh giảm quân số, cân đối giữa kinh tế và quốc phòng.

Ngày 1 tháng 6 năm 1994, của Đảng uỷ Quân sự Trung ương ban hành Nghị quyết số 93/ĐUQSTƯ, Về tiếp tục đổi mới công tác đào tạo cán bộ, nhân viên chuyên môn,  kỹ thuật và xây dựng nhà trường chính quy. Nghị quyết chỉ rõ phương hướng, nhiệm vụ chung là: “Tiếp tục đổi mới công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ, nhân viên chuyên nôn kỹ thuật và xây dựng nhà trường chính quy nhằm mục tiêu đại học hoá trình độ học vấn của đội ngũ sĩ quan và nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật của đội ngũ nhân viên chuyên môn, kỹ thuật, làm cơ sở hoàn thành tốt chức vụ được giao, thực hiện sự chuyển tiếp vững chắc các thế hệ cán bộ...” [6]. Để thực hiện mục tiêu đại học hoá trình độ học vấn của đội ngũ sĩ quan, nhiều trường sĩ quan được nâng cấp hòa nhập vào hệ thống nhà trường đại học quốc gia.

Tóm lại, từ năm 1975 đến 2025, hệ thống nhà trường quân đội liên tục được củng cố, phát triển theo hướng chính quy, hiện đại. Sự phát triển của lý luận và thực tiễn giáo dục quân sự tương đối hoàn chỉnh, các bậc học, ngành học được hoàn thiện, cơ sở vật chất, trang thiết bị, hệ thống giảng đường, môi trường cảnh quan và các điều kiện đảm bảo cho giáo dục, đào tạo được chuẩn hóa, đáp ứng tiêu chí của nhà trường quân đội hiện đại. Hầu hết các trường sĩ quan được nâng cấp lên bậc đại học và hòa nhập với hệ thống giáo dục quốc dân. Nhiều học viện, nhà trường đại học được tham gia đào tạo sau đại học cả hệ quân sự và dân sự.

Hệ thống nhà trường quân đội vừa là những trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, vừa là những trung tâm nghiên cứu khoa học quân sự. Một số học viện đã trở thành trung tâm nghiên cứu khoa học quân sự hàng đầu của quân đội và quốc gia. Thực hiện phương châm lý luận liên hệ với thực tiễn, nhà trường gắn liền với chiến trường, chương trình nội dung, phương pháp giáo dục của các trường thường xuyên được đổi mới, nhờ đó đã phục vụ kịp thời, có hiệu quả cho việc xây dựng và chiến đấu của quân đội.

Đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục dần dần được chuẩn hoá về học vấn, về chức vụ và về ngoại ngữ, tin học. Hầu hết cán bộ, giảng viên được đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ kiến thức, trình độ sư phạm và trình độ lý luận chính trị, đồng thời được luân phiên đi thực tiễn ở đơn vị, nhờ đó đã đáp ứng được những yêu cầu giảng dạy, nghiên cứu khoa học trong thời kỳ mới.

Mặc dù hòa nhập vào hệ thống giáo dục quốc gia nhưng các nhà trường quân đội vẫn giữ được tính độc đáo riêng của lĩnh vực quân sự. Đào tạo cán bộ ở nhà trường quân đội vừa coi trọng kiến thức lý luận hiện đại vừa coi trọng kinh nghiệm thực tiễn, lấy thực hành, thực tiễn quân sự làm chuẩn. Giảng viên vừa giảng dạy khoa học, vừa truyền thụ kinh nghiệm thực tiễn quân sự cho học viên .

Kết luận

Hình thành và phát triển từ thực tiễn chiến tranh, được thử nghiệm, tôi luyện trong chiến tranh, hệ thống nhà trường quân đội đã từng bước lớn mạnh và trưởng thành như ngày nay. Từ kinh nghiệm thực tiễn phong phú trong quá trình xây dựng, phát triển, hệ tống nhà trường quân đội đã khái quát nên những phạm trù lý luận khoa học giáo dục mang bản sắc riêng của nền giáo dục quân sự Việt Nam. Đó là những vấn đề có tính quy luật về mục đích, nhiệm vụ, nguyên lý giáo dục, đào tạo trong quân đội; những đặc trưng bản chất của quá trình sư phạm quân sự; nội dung, phương pháp và con đường hình thành, phát triển văn hoá sư phạm của người cán bộ quân đội, người giáo viên trong nhà trường quân đội…

Dựa trên kinh nghiệm thực tiễn phong phú của cách mạng Việt Nam, quán triệt vận dụng sáng tạo quan điểm phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu thành tựu khoa học hiện đại của các quốc gia phát triển cao trên thế giới, đến nay hệ thống  nhà trường quân đội đã được xây dựng trưởng thành, phát triển toàn diện, tiên tiến, hiện đại và mang bản sắc riêng của nền giáo dục quân sự Việt Nam. Quá trình hình thành, phát triển của Nhà trường quân đội đã góp phần tô thắm thêm truyền thống vẻ vang của nền giáo dục cách mạng Việt Nam trong 80 năm qua.

Tài liệu tham khảo

1. Bộ Tổng tham mưu, Cục Nhà trường, Tư liệu lịch sử quá trình hình thành, phát triển hệ thống nhà trường lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội 1995

2. Bộ Tổng tham mưu, Cục Nhà trường, Những văn bản chủ yếu về công tác giáo dục đào tạo trong các nhà trường, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội 1997

3. Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam - Lịch sử quân sự Việt Nam, Tập 9: Hoạt động quân sự từ năm 1897 đến Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Nxb CTQGST, Hà Nội 2019.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện quân sự của Đảng, T1, Nxb QĐND, Hà Nội 1969

5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện quân sự của Đảng, T 2, Nxb QĐND, Hà Nội 1969

6. Đảng uỷ Quân sự Trung ương, Về tiếp tục đổi mới công tác đào tạo cán bộ, nhân viên chuyên môn,  kỹ thuật và xây dựng nhà trường chính quy, Nghị quyết số 93/ĐUQSTƯ, ngày 1 tháng 6 năm 1994.

7. Tổng cục Chính trị, Ban Nguyên cứu Lịch sử quân đội, Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội 1974

Ý kiến bạn đọc
Đổi mới công tác đánh giá chất lượng giáo dục phổ thông cấp quốc gia
( GD&ĐT công bố dự thảo Thông tư về đánh giá diện rộng, hướng tới minh bạch, hiệu quả và hội nhập quốc tế )   TCGCVN - Ngày 07/7/2025, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) công bố Dự thảo Thông tư ban hành Quy định về đánh giá diện rộng cấp quốc gia chất lượng giáo dục phổ thông, chính thức lấy ý kiến góp ý rộng rãi trên Cổng thông tin điện tử của Bộ. Thông tư này khi được ban hành sẽ thay thế Thông tư số 51/2011/TT-BGDĐT ngày 03/11/2011, nhằm cập nhật yêu cầu mới trong đổi mới giáo dục và hội nhập quốc tế sâu rộng.
Hòa trong không khí tưng bừng của cả nước chào mừng tri ân các nhà giáo, vừa qua THCS-THPT Newton long trọng tổ chức “Lễ kỷ niệm 40 năm ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11” nhằm tôn vinh những thầy giáo, cô giáo đang từng ngày từng giờ say sưa trên bục giảng để cống hiến to lớn cho sự nghiệp trồng người.
Khi nói về công lao của những thầy, cô giáo đối với sự nghiệp giáo dục miền núi Nghệ An, không thể không nói đến cố Nhà giáo Ưu tú Lô Xuân Minh – cố Hiệu trưởng Trường THSP Miền núi Nghệ An.
Hằng năm, cứ vào mùa khai trường, vào những ngày của tháng 11, trong tâm trí tôi lại sống dậy mạnh mẽ những kỉ niệm vui buồn, sâu sắc của một thuở đi dạy học nhiều gian nan vất vả, nhiều khó khăn và thương nhớ. Với tôi, tình cảm tôn sư trọng đạo, đạo lí tôn sư trọng đạo luôn luôn âm thầm, sâu lắng nhưng cũng hết sức mạnh mẽ và cao cả. Xin chia sẻ đôi điều về những ngày thương khó của một thuở đi dạy học như là sự tri ân đối với nghề nghiệp cao quý mà mình đã mang duyên nợ suốt cả cuộc đời. Và, cũng từ những ngày dạy học thương khó đó rút ra được những suy ngẫm sâu sắc về truyền thống tôn sư trọng đạo trong dòng chảy văn hóa Việt.                           
Ngày 03/11/ 2022 Hội Cựu Giáo chức tỉnh Lạng Sơn tổ chức Hội nghị biểu dương hội viên tiêu biểu và Kỷ niệm 40 năm Ngày Nhà giáo Việt Nam (20/11/1982 - 20/11/2022)
Ngày 01/11/2022 Hội Cựu Giáo chức Học viện Ngân Hàng tổ chức Đại hội lần thứ 2 nhiệm kỳ 2022 -2027tại hội trường lớn Học viện Ngân hàng. Dự Đại hội có 158/235 hội viên đã được triệu tập. Đại hội vinh dự được đón tiếp các đại biểu, khách mời đại diện cho Hội Cựu giáo chức Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Công đoàn Ngân hàng Việt Nam, Lãnh đạo Học viện Ngân Hàng.  
GCVN: Kì thi Học sinh giỏi các môn văn hóa và khoa học được tổ chức thường niên là một hoạt động chuyên môn quan trọng nhằm đánh giá chất lượng giáo dục mũi nhọn của các trường THCS.
Dạy học trực tuyến là phương thức dạy học từ xa với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin, người dạy và người học thực hiện các hoạt động tương tác với nhau thông qua màn hình ảo nhằm thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ dạy học theo chương trình, kế hoạch đã xác định. Cơ sở khoa học của dạy học trực tuyến là các luận điểm triết học duy vật biện chứng về quy luật nhận thức của người học và những thành tựu của Tâm lý học, Giáo dục học hiện đại. Dạy học trực tuyến là xu thế tất yếu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, của quá trình chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục.
Kính lễ với người thầy là truyền thống đạo lý tốt đẹp của người Việt ta. Từ xa xưa người Việt hầu như ai từng đi học cũng đều thuộc câu ca: “Muốn sang thì bắc cầu kiều / Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy”. Yêu kính thầy cô, quý trọng tri thức và vì thế vị trí của người thầy luôn được đặt rất cao trong nấc thang xã hội. Theo đà phát triển của xã hội, một số quan niệm không còn phù hợp trong xã hội hiện đại; trong đó liên quan đến môi trường giáo dục, người học có thêm nhiều phương thức, tự do hơn trong học tập. Vai trò, vị thế của người thầy và quan hệ giữa thầy cô với học sinh, với cha mẹ học sinh cũng có những thay đổi. Giáo dục không còn đơn thuần một chiều, thụ động.
Hệ thống giáo dục 4.0 áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến, trên 3 ứng dụng: Một là, sử dụng các thiết bị thông minh để hỗ trợ cho giáo dục và đào tạo. Hai là, tổ chức các khóa học trực tuyến thông qua mạng Internet. Ba là, ứng dụng sáng tạo mở, kết hợp người học và máy tính để thực hiện các nhiệm vụ học tập sáng tạo.
Sáng ngày 18/10/2022, chương trình Báo cáo Dự án “Văn học sáng tạo” mùa 2 của thầy và trò trường TH - THCS Pascal (Q. Bắc Từ Liêm, Hà Nội) đã diễn ra thành công tốt đẹp. Các bạn học sinh với diễn xuất ấn tượng đã mang tới buổi báo cáo những tiểu phẩm sân khấu hóa đặc sắc được lấy cảm hứng từ các bài thơ, trường ca của nhà thơ Trần Đăng Khoa  và tái hiện lại trên sân khấu. Bên cạnh đó, các bạn học sinh đã cùng tham gia hoạt động trải nghiệm trưng bày, trao đổi sách vô cùng thú vị và bổ ích.
Đam mê công nghệ thông tin thôi thúc Nguyễn Văn Hiệp xin nghỉ việc, dành toàn thời gian học lập trình online ở tuổi 25 và chuyển nghề sau ba tháng.
Sau 5 ngày làm việc khẩn trương, nghiêm túc, nhiệt tình, trách nhiệm và hiệu quả, sáng 11/10/2022, Học viện Báo chí và Tuyên truyền phối hợp với Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục, Đại học Vinh tổ chức Lễ Bế mạc đợt khảo sát chính thức đánh giá chất lượng giáo dục 04 chương trình đào tạo trình độ đại học các ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học, Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, Xây dựng Đảng và Chính quyền Nhà nước, Kinh tế chính trị.
GD&TĐ - Hàng loạt giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục Tiểu học đã được ngành giáo dục Lào Cai đưa ra để các nhà trường triển khai, tháo gỡ.
GD&TĐ - Giờ dạy có sự hài hòa giữa lý thuyết, bài tập, thực hành để học sinh nắm vững nội dung cốt lõi nhưng không được cắt xén hay giảm tiết môn học.
Điện ảnh là ngành được xác định là tiên phong trong công nghiệp văn hóa ở Việt Nam. Làm sao để Điện ảnh phát triển, thực sự đem lại GDP, quảng bá văn hóa con người Việt Nam ra thế giới, chúng tôi đã có cuộc trò chuyện với ông Vi Kiến Thành- Cục trưởng Cục Điện ảnh để làm rõ hơn vấn đề này.
Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch Hàn Quốc mới đây cho biết nhạc hội văn hóa đầu tiên trong khuôn khổ triển lãm K Expo Vietnam 2022 đã diễn ra tại thủ đô Hà Nội, mở màn cho sự kiện giao lưu văn hóa giữa Hàn Quốc và Việt Nam.
Văn hóa giao thông có lẽ là thuật ngữ được nhiều người nhắc đến từ người tham gia giao thông cho đến các bạn học sinh khi còn ngồi ghế của nhà trường. Nhưng để hiểu văn hóa giao thông là gì? Và tham gia như thế nào để thể hiện sự văn hóa thì không phải ai cũng nắm rõ được. Hãy cùng Anycar tìm hiểu rõ vấn đề này qua bài viết này nhé!
(DNTO) - Trong giai đoạn hiện nay, rất nhiều doanh nghiệp vẫn chưa thành công trong chiến lược chuyển đổi số bởi rất nhiều nguyên nhân. Nhiều doanh nghiệp cho biết hiện tiến trình chuyển đổi số đang rất chậm do thiếu vốn, thiếu nguồn nhân lực và cả đơn vị cung cấp giải pháp.
(DNTO) - Tuần qua, bộ 3 cổ phiếu thép “đình đám” là CTCP Tập đoàn Hòa Phát HPG (+10,5%), Công ty Cổ phần Thép Nam Kim NKG (+14.9%), Công ty Cổ phần Tập đoàn Hoa Sen HSG (+19,9%), đều ghi nhận mức tăng khá ấn tượng.
GD&TĐ - Nếu nhiễm lại một tuýp virus dengue khác, bệnh nhân có thể bị nặng hơn, dễ trở thành sốt xuất huyết dengue hoặc sốc dengue.
GD&TĐ - Chào mừng 92 năm ngày phụ nữ Việt Nam, Công đoàn Formosa Hà Tĩnh tổ chức giải kéo co cho nữ công nhân với những trận đấu hấp dẫn, kịch tính.
Thay mặt Chính phủ, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Phạm Bình Minh vừa ký ban hành Nghị định số 83/2022/NĐ-CP ngày 18/10/2022 quy định về nghỉ hưu ở tuổi cao hơn đối với cán bộ, công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý.
GD&TĐ - Một siêu thị Điện Máy Xanh ở TP. Đà Nẵng đã bị mất 130 chiếc điện thoại trị giá hơn 1,2 tỷ đồng khi cho người dân vào tránh lụt đêm 14/10.
GD&TĐ - Đầu năm 2022, khoảng 75% trường học ở Mỹ yêu cầu học sinh, giáo viên đeo khẩu trang khi học trực tiếp, theo số liệu từ Trung tâm Thống kê Giáo dục quốc gia. Đến trước khi nghỉ hè, con số này giảm xuống 15%.
GD&TĐ - Trường ĐH Oxford, Anh, tiếp tục đứng đầu danh sách trường đại học thế giới năm 2023 của THE trong 7 năm liên tiếp.
GD&TĐ -Tại Hàn Quốc, chương trình giáo dục phổ thông không tổ chức dạy thể dục cho học sinh lớp 1 và lớp 2, những năm đầu tiểu học.
GD&TĐ - Nhiều gia đình khó khăn tại Indonesia buộc phải cho con nghỉ học do không đủ khả năng chi trả học phí.
GD&TĐ - Trung Quốc đang cần hàng triệu công nhân lành nghề để duy trì hoạt động của nền kinh tế như thợ sửa ô tô, chữa điện lạnh, kỹ thuật viên máy tính… Tuy nhiên, hệ thống giáo dục nghề nghiệp nước này đã rơi vào tình trạng hỗn loạn, khiến nền kinh tế của họ không đủ khả năng để thay thế hàng triệu người có tay nghề cao sắp nghỉ hưu trong bối cảnh dân số già và lực lượng lao động bị thu hẹp.
20 năm qua đã có rất nhiều ý kiến tâm huyết của cá nhân hoặc tập thể các nhà giáo dục, các nhà khoa học trong và ngoài nước đóng góp cho sự nghiệp GD-ĐT nước nhà. Có thể kể một số kiến nghị chính sau đây: Kiến nghị của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam cuối năm 1996(2), 2000(3), 2005(4); Kiến nghị của Đại tướng Võ Nguyên Giáp năm 2004-2006(5); Kiến nghị của 24 GS và nhà khoa học trong và ngoài nước do GS Hoàng Tụy chủ biên năm 2004(6); Đề án kiến nghị của nhóm trí thức người Việt ở nước ngoài do GS Vũ Quang Việt chủ biên năm 2005(7); Báo cáo “lựa chọn thành công” trong đó có một phần đánh giá về GD-ĐT của nhóm GS và chuyên gia thuộc trường Đại học Harvard trình trực tiếp thủ tướng cuối năm 2007(8); Kiến nghị của nhóm nghiên cứu đề tài khoa học cấp Nhà nước do bà Nguyễn Thị Bình làm chủ nhiệm 2008(9); Riêng mảng cơ cấu hệ thống giáo dục nói chung và hệ thống dạy nghề nói riêng có kiến nghị năm 2011(10) của Đặng Danh Ánh và một số kiến nghị của 30 nhà khoa học trong và ngoài nước đã được in thành sách năm 2007(11).
GD&TĐ -Từ năm học 2022 - 2023, Bộ Giáo dục Bờ Biển Ngà ban hành quy định học sinh có điểm trung bình năm học dưới 8,5 trên thang điểm 10 sẽ bị đuổi học.