GIÁO DỤC PHÒNG NGỪA NHỮNG HÀNH VI LỆCH CHUẨN TRONG ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CỦA HỌC SINH PHỔ THÔNG
GIÁO DỤC PHÒNG NGỪA NHỮNG HÀNH VI LỆCH CHUẨN TRONG ĐẠO ĐỨC, LỐI SỐNG CỦA HỌC SINH PHỔ THÔNG
Đặt vấn đề:
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã chỉ rõ cần “Tăng cường giáo dục thế hệ trẻ về lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa, nâng cao lòng yêu nước, tự hào dân tộc, nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão, khát vọng vươn lên; nêu cao tinh thần trách nhiệm với đất nước”. Trong xã hội hiện nay do nhiều nguyên nhân khác nhau đã xuất hiện những hiện tượng tiêu cực, suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ có chức, có quyền, chủ các doanh nghiệp… với lối sống thực dụng chạy theo đồng tiền, họ tham ô, tham nhũng, hối lộ, trốn thuế, thu lợi bất chính vi phạm pháp luật đã bị tòa án nhân dân các cấp xử lý nghiêm khắc. Những hiện tượng tiêu cực này có ảnh hưởng lớn đến tư tưởng, đạo đức, lối sống của học sinh, ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục trong nhà trường. Việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh phổ thông trong giai đoạn hiện nay có tính thời sự và cấp thiết nhằm tìm ra các biện pháp giáo dục phòng ngừa những hành vi lệch chuẩn của học sinh và nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông.
Hoạt động trải nghiệm của học sinh Trường Tiểu học Hải Nhân (thị xã Nghi Sơn)
1. Những vấn đề lý luận về giáo dục phòng ngừa những hành vi lệch chuẩn trong đạo đức, lối sống của học sinh phổ thông
1.1. Đạo đức
Đạo đức (Morality) còn gọi là luân thường đạo lý, là những quy tắc ứng xử chuẩn mực trong quan hệ xã hội, được mọi người chấp nhận và tự giác thực hiện để duy trì trật tự, kỉ cương, văn minh xã hội. Về bản chất đạo đức là những quan niệm về cái thiện, cái ác, cái đẹp, cái xấu... trong quan hệ ứng xử giữa con người với con người, với thế giới xung quanh, xác định những gì được phép và không được phép hành động. Sống lương thiện, tử tế là có đạo đức, sống ích kỷ, tham lam, lười biếng, vô ơn, bạc nghĩa... là vô đạo đức, bị dư luận xã hội lên án.
Những giá trị phổ biến nhất của đạo đức được thể hiện trong các khái niệm: lễ phép, hiếu thảo, biết ơn, công bằng, độ lượng, nhân ái, nhân đạo, khiêm tốn, thật thà, dũng cảm, trung thực, chí công, vô tư, tôn sư, trọng đạo, yêu nước, thương dân…, ngược lại với đạo đức là vô đạo đức, thể hiện bằng các khái niệm: lười biếng, hèn nhát, kiêu ngạo, đua đòi, ăn chơi, tham ô, hối lộ, lừa dối, bất hiếu, bất tín...
Đạo đức thể hiện nét đẹp trong phong cách sống của mỗi người, đồng thời phản ánh trình độ dân trí xã hội. Trong xã hội văn minh người dân sống có đạo đức, đoàn kết, yêu thương, đùm bọc nhau, sống và làm việc vì lợi ích chung của cộng đồng.
Chuẩn mực đạo đức được hình thành do nhu cầu cuộc sống và phát triển theo thời gian, không gian, mỗi dân tộc, mỗi địa phương có những quy tắc ứng xử phản ánh truyền thống văn hóa của dân tộc mình, địa phương mình. Những quy tắc tiến bộ được duy trì, phát triển, những quy tắc lạc hậu, lỗi thời bị loại bỏ. Đạo đức là hình thái ý thức xã hội, có tính lịch sử, tính giai cấp, tính dân tộc và tính thời đại.
Đạo đức của mỗi người được hình thành từ thuở ấu thơ, bắt đầu từ giáo dục gia đình, tiếp đến là giáo dục nhà trường và giáo dục xã hội, cùng với sự rèn luyện, tu dưỡng của bản thân và trải nghiệm trong cuộc sống. Đạo đức được duy trì bằng ý thức tự giác, bằng lương tâm của mỗi người và được điều chỉnh bằng dư luận xã hội.
Đạo đức có cấu trúc gồm ba phần: Nhận thức đạo đức, thái độ đạo đức và hành vi đạo đức. Nhận thức đạo đức là sự nhận biết, nắm vững bản chất, giá trị của các quy tắc ứng xử chuẩn mực trong quan hệ xã hội. Thái độ đạo đức là niềm tin vào chân lý, lẽ phải, là ý thức tôn trọng giá trị của các quy tắc ứng xử chuẩn mực và tự giác thực hiện trong cuộc sống hàng ngày, trở thành lương tâm - một loại tình cảm cao cấp giữ vai trò là động lực thôi thúc con người hành động theo lẽ phải. Hành vi đạo đức là những hành động theo chân lý, lẽ phải, kính trên, nhường dưới, nhân ái, nhân đạo, văn minh, chăm chỉ lao động, tự lực, tự cường, yêu nước, thương dân… được lặp nhiều lần trở thành lối sống, phong cách sống, đó là những phẩm chất dễ nhận thấy ở mỗi người.
Đạo đức có trong mọi chủ thể: cá nhân, gia đình, xã hội… do đó có đạo đức cá nhân, đạo đức gia đình và đạo đức xã hội... Đạo đức có trong mọi lĩnh vực hoạt động: đạo đức thầy thuốc, đạo đức kinh doanh, đạo đức công vụ, đạo đức nhà giáo, đạo đức học sinh… Đạo đức có trong mọi lứa tuổi: đạo đức trẻ thơ, đạo đức thanh, thiếu niên, học sinh, đạo đức người trưởng thành, đạo đức người làm cha mẹ, đạo đức người cao tuổi… Mỗi loại đạo đức có những nét đặc thù nhưng đều chứa đựng những giá trị cốt lõi đó là chuẩn mực xã hội.
1.2. Vai trò của đạo đức
Đạo đức là những quy tắc ứng xử chuẩn mực không thành văn, nhưng có ý nghĩa vô cùng to lớn trong đời sống xã hội. Đạo đức định hướng giá trị sống của mỗi cá nhân, đồng thời điều chỉnh mọi hành vi của xã hội. Đạo đức còn là lá chắn giúp mỗi người biết cách phòng tránh những thói hư, tật xấu, đẩy lùi những tệ nạn xã hội, những hành vi vi phạm pháp luật.
Đối với cá nhân: Đạo đức giúp mỗi người hình thành lối sống, lí tưởng sống và những phẩm chất nhân cách tốt đẹp, do đó được người thân yêu mến, cộng đồng xã hội tin tưởng và tôn trọng. Đạo đức định hướng mỗi người sống và làm việc vì lợi ích chung của cộng đồng, tránh xa những cám dỗ, làm mất đi giá trị của bản thân, có thể dẫn đến vi phạm pháp luật… Bác Hồ đã dạy: “Người không có đạo đức là người vô dụng”.
Đối với gia đình: Đạo đức tạo nên cuộc sống đầm ấm, hạnh phúc, mọi thành viên yêu thương, chăm sóc lẫn nhau. Đạo đức định hướng giáo dục con cái sống lương thiện, trở thành con ngoan, trò giỏi, công dân có ý thức. Đạo đức còn là giá trị cốt lõi tạo nên nề nếp, gia phong được xã hội tôn trọng.
Đối với nhà trường: Đạo đức tạo nên nét đẹp trong môi trường giáo dục: thầy cô mẫu mực, yêu thương học trò, luôn là tấm gương sáng cho học trò noi theo, học trò kính yêu thầy cô giáo như cha mẹ mình, luôn ghi nhớ lời dạy của tổ tiên: “công cha, nghĩa mẹ, ơn thầy”. Trong nhà trường học sinh thân ái, đoàn kết cùng nhau học tập, tu dưỡng, phấn đấu để trở thành con ngoan, trò giỏi, đội viên, đoàn viên tích cực, công dân có ích cho xã hội...
Đối với xã hội: Đạo đức là bộ mặt văn hóa của xã hội. Đạo đức góp phần duy trì trật tự, kỷ cương, hình thành xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đất nước phồn vinh, dân giàu, nước mạnh. Đạo đức tạo nên bản sắc, truyền thống văn hóa tốt đẹp của mỗi cộng đồng, dân tộc và ngược lại trong một xã hội người dân sống thiếu đạo đức đó là xã hội suy tàn.
1.3. Lối sống:
Lối sống (Lifestyle) còn gọi là cách sống hay phong cách sống là những hành vi đạo đức được lặp lại nhiều lần tạo thành những nét tính cách, những thói quen đặc trưng của mỗi người. Lối sống thể hiện bộ mặt đạo đức, giá trị sống của mỗi cá nhân, đồng thời là thước đo trình độ hiểu biết, kinh nghiệm sống và năng lực tự điều chỉnh để thích nghi, hòa hợp với môi trường xã hội. Mỗi người có lối sống khác nhau, tuỳ vào điều kiện sống, môi trường sống, địa phương sinh sống, nghề nghiệp, tuổi tác, trình độ hiểu biết, kinh nghiệm xã hội và những đặc điểm tâm lý cá nhân.
Ta vẫn thường nói lối sống của giới nghệ sĩ, của các nhà khoa học, của đội ngũ nhà giáo, của thương gia, của công nhân, của nông dân… có những đặc điểm rất khác nhau. Tuy nhiên xem xét một cách tổng quát ta thấy có hai lối sống điển hình đó là: lối sống chuẩn mực và lối sống tùy tiện. Lối sống chuẩn mực là lối sống khoa học, lành mạnh, tử tế, trung thực, có nề nếp, trật tự, kỷ cương, văn minh, lịch sự, có ước mơ, hài bão, có ý chí phấn đấu vươn lên để trưởng thành.
Lối sống tùy tiện là lối sống buông thả, thiếu khoa học, đi ngược lại với thuần phong, mỹ tục, ngược lại với các giá trị văn hóa, chuẩn mực đạo đức, quy tắc ứng xử xã hội, có thói quen lười biếng, tùy tiện, tham lam, ham chơi, đua đòi, hèn nhát, nói năng vô lễ, thô tục, cờ bạc, rượu chè, nghiện hút….
Có hai cách nhận biết lối sống của con người, một là quan sát trang phục, dáng đi đứng, cách giao tiếp, ứng xử của họ với những người xung quanh, hai là quan sát thói quen làm việc, học tập, sở thích, vui chơi, giải trí, ăn uống, hẹn hò, bè bạn, ý chí vươn lên và mức độ thành đạt của họ.
Đạo đức và lối sống luôn đi liền với nhau, khi nói đến đạo đức người ta thường liên tưởng đến lối sống, khi nói đến lối sống người ta suy nghĩ về đạo đức tư cách của một cá nhân. Đạo đức trong sáng, lối sống lành mạnh là những phẩm chất quý giá của con người.
1.4. Pháp luật và quan hệ giữa đạo đức và pháp luật
Cùng với đạo đức, pháp luật (Low) cũng là những quy tắc ứng xử xã hội, nhưng do nhà nước - đại diện cho giai cấp cầm quyền ban hành, nhằm duy trì trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội, đồng thời để bảo vệ quyền lợi của giai cấp và của người dân.
Pháp luật được soạn thảo thành các điều luật, được ghi trong hiến pháp và các bộ luật, mọi người dân có nghĩa vụ phải tuân theo. Nhà nước duy trì pháp luật bằng các công cụ chuyên chính, các chế tài, với các hình phạt nghiêm minh. Nhà nước điều hành, quản lý xã hội bằng pháp luật đó là nhà nước pháp quyền.
Pháp luật còn được soạn thảo dựa trên những tập quán tiến bộ của các cộng đồng xã hội, do vậy pháp luật được ví như đạo đức xã hội, được người dân đồng tình, ủng hộ. Phạm vi ảnh hưởng của pháp luật liên quan đến sự tồn vong của chế độ, của nhà nước, còn đạo đức có ảnh hưởng chủ yếu đến các đời sống tinh thần của người dân. Mọi hành vi vi phạm pháp luật bị nhà nước áp dụng các biện pháp giáo dục, răn đe, cưỡng chế, trừng phạt… nhờ đó xã hội trở nên công bằng, mọi người dân sống bình đẳng.
Đạo đức trong sáng đồng hành với pháp luật nghiêm minh tạo nên một xã hội lý tưởng, văn minh mọi người dân, mọi gia đình sống an toàn, hạnh phúc. Giữa pháp luật và đạo đức có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại, chi phối lẫn nhau, cho dù chúng có những điểm khác nhau. Đạo đức là nền tảng tinh thần, là điều kiện để mỗi người tiếp nhận và thực hiện một cách tự giác các quy định của pháp luật. Người có đạo đức luôn nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Ngược lại pháp luật là công cụ để duy trì, bảo vệ và phát triển các quy tắc đạo đức tiến bộ. Những quan niệm đạo đức được pháp luật thừa nhận sẽ được đảm bảo thực hiện bằng các biện pháp mang tính quyền lực nhà nước. Pháp luật còn có vai trò giữ gìn và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc, ngăn chặn những hành vi suy thoái đạo đức, loại bỏ những quan niệm đạo đức lạc hậu, lỗi thời tạo nên những chuẩn mực đạo đức mới, phù hợp với sự tiến bộ của thời đại.
2. Sự phát triển đạo đức, lối sống của học sinh phổ thông
Đạo đức của mỗi người được hình thành từ thuở ấu thơ, được ông bà, cha mẹ dạy bảo từng “lời ăn, tiếng nói”, được người lớn làm gương từng “hành vỉ, cử chỉ”, từ đó trẻ tiếp thu, học tập, rèn luyện mà trưởng thành. Khi còn nằm trên nôi, bé được nghe lời ru ngọt ngào, yêu thương của mẹ, của bà “công cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra, một lòng thờ mẹ, kính cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con” nghe lời hát ru bé nhập tâm, ghi nhớ. Lớn lên trong mái ấm gia đình đầy tình yêu thương, các chuẩn mực đạo đức dần dần được hình thành và phát triển, lan tỏa từ thế hệ này sang thế hệ khác tạo nên đạo đức truyền thống gia tộc, dòng họ.
Học sinh phổ thông lứa tuổi từ 6 đến 18 đang học tập và tu dưỡng để trở thành những công dân có ý thức làm chủ bản thân, gia đình và xã hội. Trẻ em hôm nay là thế giới ngày mai, trẻ em sống có đạo đức, xã hội văn minh, đất nước phồn vinh và ngược lại trẻ em sống vô đạo đức, xã hội sẽ suy tàn.
Các trường phổ thông có nhiệm vụ giáo dục cho học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và lao động, trong đó đạo đức là nội dung quan trọng hàng đầu. Bác Hồ đã dạy “Có tài mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó” do vậy nhà trường đang thực hiện quá trình giáo dục toàn diện cho học sinh. Đạo đức của học sinh phát triển theo lứa tuổi, do vậy nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục cho học sinh cũng nâng dần theo cấp học.
Ở cấp tiểu học nhà trường giáo dục học sinh bắt đầu từ kỹ năng giao tiếp: lễ phép, vâng lời ông bà, cha mẹ; tiếp đến là hình thành tình cảm yêu thương ông bà, cha mẹ, anh, chị, em, kính thầy, yêu bạn, đoàn kết, tương trợ nhau cùng tiến bộ, sau đó là giáo dục kỹ năng sống: nề nếp, gọn gàng, sạch sẽ, chăm học, chăm làm, ý thức rèn luyện thân thể, giữ vệ sinh cá nhân, lớp học, bảo vệ môi trường và cuối cùng là giáo dục ý thức độc lập, tự chủ, tự tu dưỡng, phấn đấu, tính kiên trì, dũng cảm, trung thực, ý thức thực hiện kỷ luật học đường, trật tự, an toàn xã hội…
Ở hai cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông nhà trường tiếp tục giáo dục cho học sinh kỹ năng giao tiếp, kỹ năng sống, tinh thần đoàn kết, yêu thương, nhân ái, nhân đạo, tôn trọng nội quy, kỷ luật của nhà trường, của các đoàn thể, chăm học, chăm làm, kiên trì, quyết tâm phấn đấu trong học tập, ý thức tự giác thực hiện nghĩa vụ của người học sinh, dũng cảm bảo vệ chân lý, lẽ phải, đặt lợi ích cộng đồng lên trên lợi ích của cá nhân, sẵn sàng giúp đỡ người yếu thế, những người gặp khó khăn, hoạn nạn, ý thức tự lập, tự cường, ý thức đoàn kết các dân tộc trong nước và quốc tế, biết định hướng chọn nghề để tiếp tục học tập ở bậc cao hơn hoặc bước vào cuộc sống lao động xây dựng và bảo vệ tổ quốc…
3. Thực trạng đạo đức, lối sống của học sinh phổ thông
Qua các công trình nghiên cứu, các báo cáo của nhà trường, địa phương, cũng như tổng kết hàng năm của ngành giáo dục cho thấy học sinh Việt Nam có nhiều phẩm chất quý báu cần được giáo dục phát huy:
Ngoan ngoãn, lễ phép, kính thầy, yêu bạn, thân ái, đoàn kết, giúp bạn bè trong học tập, trong cuộc sống và trong sinh hoạt tập thể. Có tình cảm, yêu thương ông bà, cha mẹ, anh, chị, em, người thân, thầy cô giáo, yêu tổ quốc, yêu đồng bào.
Có ý thức rèn luyện, tu dưỡng để trở thành con ngoan, trò giỏi, bạn tốt, thành viên tích cực của đội thiếu niên tiền phong và đoàn viên thanh niên cộng sản.
Học hành chăm chỉ, có ý thức phấn đấu để học tập tốt, đạo đức tốt. nhiều em đạt danh hiệu học sinh giỏi, học sinh xuất sắc nhiều năm được nhà trường khen thưởng. Nhiều học sinh đạt giải cao trong các kỳ thi học sinh giỏi cấp trường, cấp huyện, tỉnh, thành, quốc gia được các cấp quản lý tuyên dương, trao phần thưởng.
Nhiều học sinh tham dự các kỳ thi Olympic quốc tế về các môn khoa học đạt được giải cao, được bạn bè thế giới ngưỡng mộ. Thành tích xuất sắc của học sinh tại các kỳ thi Olympic quốc tế từ nhiều năm nay đã khẳng định vị thế của giáo dục Việt Nam trên đấu trường trí tuệ đỉnh cao.
Nhiều học sinh sống trong vùng còn khó khăn, thiếu thốn biết vượt nghèo, học giỏi, tự lực, tự trưởng thành trong cuộc sống là những tấm gương đẹp cho các bạn noi theo. Nhiều học sinh dũng cảm cứu bạn bị đuối nước trong các ao, hồ, sông, suối, thậm chí ở bãi biển khi đi du lịch và trong các trận bão lụt, cuồng phong. Có học sinh tình nguyện cõng bạn tật nguyền nhiều năm đến trường, không quản ngại mưa, nắng, đường xa, mệt nhọc… Nhiều học sinh tham gia các hoạt động từ thiện, giúp đỡ người nghèo, người gặp hoạn nạn trong thiên tai, bão lũ, trong dịch Covid 19, tham gia hoạt động đền ơn, đáp nghĩa đối với các gia đình thương binh, liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng. Có tinh thần yêu nước, thương dân, đoàn kết quốc tế, biết tôn trọng các nền văn hóa của các dân tộc trên thế giới. Nhiều học sinh cuối cấp trung học phổ thông có có ý thức phấn đấu về chính trị, tư tưởng, đạo đức, hướng theo lý tưởng cách mạng của Đảng, có thành tích học tập và tu dưỡng xuất sắc đã được các đảng bộ địa phương kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam.
5. Hành vi lệch chuẩn trong đạo đức, lối sống có nguy cơ dẫn đến suy thoái đạo đức của học sinh phổ thông
Theo nghĩa chung nhất: suy thoái (Recession) là tình trạng suy giảm, sút kém của một thực thể đã diễn ra trong một thời gian dài, vốn trước đây đã phát triển đến một trình độ nhất định. Nguy cơ (Risk) là hiện tượng tiềm ẩn những dấu hiệu nguy hiểm, có thể gây ra tai họa lớn. Ta vẫn thường nói tới suy thoái kinh tế là tình trạng suy yếu của một nền kinh tế kéo dài có thể gây ra những hậu quả tai hại đối với sự phát triển của đất nước và cuộc sống của nhân dân. Suy thoái môi trường là tình trạng môi trường bị ô nhiễm, bị tàn phá có thể gây ra biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến sự sống của mọi sinh vật, trong đó có con người. Suy thoái đạo đức, lối sống là suy thoái các giá trị văn hóa, các chuẩn mực đạo đức xã hội, có nguy cơ làm băng hoại đời sống tinh thần của người dân và mất an toàn xã hội.
Trong xã hội hiện nay do nhiều nguyên nhân khác nhau đã làm nảy sinh những hiện tượng tiêu cực, suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ có chức, có quyền và ông chủ của các công ty, doanh nghiệp lớn… Họ đã sa vào lối sống thực dụng chạy theo đồng tiền, tham ô, tham nhũng, thu lợi bất chính, hối lộ, trốn thuế, lừa đảo chiếm đoạt tài sản… vi phạm pháp luật, đã bị tòa án nhân dân các cấp xử lý nghiêm khắc.
Học sinh phổ thông còn trẻ người, non dạ, đang được gia đình, nhà trường nuôi dưỡng và giáo dục, chưa đạt đến độ trưởng thành, những khuyết điểm của các em trong đạo đức, lối sống là nhất thời, có thể giáo dục, điều chỉnh, uốn nắn để thay đổi, đây là điều dễ thấy, dễ hiểu trong thực tế.
Lệch chuẩn (Standard deviation) là khái niệm nói về các hành vi đang diễn ra không phù hợp với mục tiêu, đi chệch khỏi nguyên tắc đã xác định, có thể điều chỉnh cho đúng quỹ đạo đã đề ra. Học sinh lệch chuẩn về đạo đức, lối sống có thể giáo dục, uốn nắn để các em nhận thức đúng, sửa chữa hoàn thiện bản thân.
Học sinh vừa là đối tượng, vừa là sản phẩm của giáo dục, nếu nói học sinh suy thoái đạo đức, lối sống có nghĩa là trẻ em đang hư hỏng, điều đó gián tiếp nói rằng giáo dục gia đình và nhà trường đang thất bại. Một bộ phận nhỏ học sinh có những bước đi lệch chuẩn cần được gia đình và nhà trường giáo dục, uốn nắn kịp thời để ngăn chặn, phòng ngừa suy thoái trước khi quá muộn.
Qua nghiên cứu cho thấy bên cạnh những ưu điểm đáng khen, vì nhiều lý do chủ quan và khách quan khác nhau, một bộ phận nhỏ học sinh phổ thông có những hành vi lệch chuẩn trong đạo đức, lối sống cần được giáo dục khắc phục.
Những biểu hiện lệch chuẩn trong đạo đức, lối sống có thể nhận thấy ở một bộ phận học sinh:
- Chưa chuyên tâm vào việc học tập, lười học, trốn tiết, nghiện chơi Games, lướt mạng xã hội, ỷ lại, dựa dẫm vào bạn bè, có những biểu hiện gian lận trong thi cử, vi phạm nội quy nhà trường.
- Nói năng thiếu lễ độ, nói tục, chửi thề trong và ngoài nhà trường.
- Thiếu ý thức phấn đấu, tu dưỡng vươn lên, thích đua đòi, ăn diện, muốn ăn ngon, mặc đẹp...
- Coi trọng giá trị vật chất hơn giá trị văn hóa, tinh thần, nảy sinh hiện tượng lấy cắp tiền của cha mẹ, của bạn bè để tiêu xài.
- Tình trạng yêu đương quá sớm, xảy ra nạn nạo phá thai ngoài ý muốn.
- Tình trạng bạo lực học đường có chiều hướng gia tăng, đã có cả những học sinh nữ tham gia.
- Có những biểu hiện thiếu tôn trọng thầy cô giáo, nói năng thiếu lễ độ, thậm chí xúc phạm, làm nhục thầy cô…
- Đã xuất hiện những hành vi đáng lo ngại hơn như: đua xe trái phép, gây rối trật tự công cộng, vi phạm luật giao thông đường bộ và hơn thế nữa là nạn trộm cắp, cờ bạc, nghiện hút, hành hung gây thương tích cho người khác... Đây là những hiện tượng vi phạm pháp luật, đã vượt qua giới hạn của phạm trù đạo đức, có thể dẫn đến suy thoái đạo đức, lối sống của học sinh, gia đình, nhà trường và xã hội cần có các biện pháp giáo dục ngăn chặn kịp thời.
6. Nguyên nhân dẫn đến các hành vi lệch chuẩn trong đạo đức, lối sống của học sinh phổ thông
Nghiên cứu lý thuyết và thực tiễn cho thấy có nhiều nguyên nhân dẫn đến hành vi lệch chuẩn trong đạo đức, lối sống của học sinh phổ thông.
Một là, do đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh
Học sinh phổ thông đang còn trẻ người non dạ: trình độ nhận thức còn hạn chế, đặc biệt là nhận thức về những vấn đề xã hội. Các em chưa có đủ kinh nghiệm sống, chưa được rèn luyện, thử thách nhiều trong thực tế, chưa lường hết được hậu quả có thể xảy ra đối với bản thân. Tâm lý trẻ vị thành niên bồng bột, ưa hoạt động, hiếu thắng, hiếu kỳ, thích tìm hiểu cái mới, cái lạ, thích đua đòi, bắt chước từ cách ăn mặc, đến cách vui chơi, tôn sùng thần tượng thể thao, nghệ thuật, thích thể hiện mình trước đám đông. Tuổi trẻ học sinh dễ bị kẻ xấu kích động, lôi kéo, mua chuộc, do chưa hiểu hết bản chất và hậu quả sẽ xảy ra, chưa hiểu quy định của pháp luật nên a dua làm theo, gây ra những ân hận cho các em về sau.
Hai là, nguyên nhân từ phía gia đình:
Nhiều công trình nghiên cứu đã chỉ rõ gia đình có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển đạo đức, lối sống và sự trưởng thành của trẻ em, vì phần lớn thời gian các em sống trong gia đình cùng người thân, dưới sự giám sát dạy dỗ của ông bà, cha mẹ. Trẻ em chưa ngoan, lỗi này trước hết thuộc về các gia đình thiếu quan tâm theo dõi giáo dục trẻ thường xuyên. Mỗi gia đình có một hoàn cảnh riêng, một số gia đình do kinh tế còn khó khăn, cha mẹ bận lo kiếm sống, nên không còn đủ thời gian để theo dõi giáo dục con cái. Một số phụ huynh trình độ nhận thức còn hạn chế, chưa hiểu hết tầm quan trọng của giáo dục gia đình, chưa có phương pháp giáo dục hoặc không thống nhất phương pháp dạy con.Tệ hại hơn là một số bậc cha mẹ đạo đức không trong sáng, lối sống không lành mạnh, không gương mẫu, con cái bắt chước làm theo, nên việc hư hỏng là điều khó tránh khỏi.
Ba là, sự phát triển của Internet, mạng xã hội:
- Số lượng người sử dụng mạng xã hội tăng nhanh, dẫn đến số người "nghiện mạng xã hội" cũng tăng theo. Học sinh sử dụng mạng xã hội một cách tùy tiện, làm ảnh hưởng đến thời gian học hành, nghỉ ngơi, hơn thế nữa còn ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe thể chất và tinh thần, đến đạo đức, lối sống của các em.
- Thông tin trên mạng xã hội đa dạng, nhiều chiều, chưa được kiểm chứng, có những thông tin phản khoa học, có thông tin phản động chống phá phá chế độ, chống phá nhà nước, các em không phân biệt được đúng sai nên có ảnh hưởng xấu đến tư tưởng, đạo đức và lối sống.
- Học sinh sử dụng máy tính, điện thoại như một công cụ để học tập là rất tốt, nhưng có những em sử dụng để gian lận khi làm bài kiểm tra, trong thi cử, từ đó dẫn đến lười học, mất khả năng tư duy độc lập, sáng tạo, ảnh hưởng đến kết quả học tập và tu dưỡng đạo đức, lối sống.
- Qua mạng xã hội việc kết nối thông tin với bạn bè rất nhanh, kẻ xấu thường lợi dụng lợi thế này để lôi kéo, dụ dỗ học sinh tham gia các hoạt động không lành mạnh.
Bốn là: do cơ chế thị trường:
Cơ chế thị trường làm cho nền kinh tế phát triển nhanh, nhưng cũng tạo ra sự phân hóa giàu nghèo, một bộ phận học sinh coi trọng đồng tiền mà quên đi những giá trị đạo đức truyền thống, giảm ý chí phấn đấu trong học tập, tu dưỡng để vươn lên. Trong cơ chế thị trường mục đích cao nhất là lợi nhuận, đồng tiền trở nên quan trọng, trong xã hội đã có nhiều cá nhân sa ngã, suy thoái, biến chất về đạo đức lối sống vì đồng tiền, đây là những tấm gương phản diện có ảnh hưởng tiêu cực tới học sinh.
Năm là: do toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế:
Toàn cầu hóa tạo nên thế giới phẳng, hội nhập quốc tế dẫn đến các nền văn hóa đông, tây ảnh hưởng lẫn nhau, làm mất dần những nét văn hóa truyền thống bản sắc riêng của các dân tộc. Do thiếu kiểm duyệt, nên có những thông tin văn hóa không phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc du nhập, dẫn đến một bộ phận học sinh đua đòi học theo lối sống ăn chơi xa lạ. Thông tin văn hóa, mạng xã hội bùng nổ, các loại hình nghệ thuật phát triển, phim ảnh, ca, múa, nhạc đa dạng, nhiều trò chơi hấp dẫn làm cho học sinh ham chơi, chểnh mảng học hành, giảm ý chí phấn đấu.
Sáu là: do giáo dục nhà trường
Phương pháp giáo dục của nhà trường thường hướng tới số đông, nặng về lý thuyết nhẹ về thực hành, trải nghiệm. Phương pháp giáo dục chưa thật đa dạng, chưa tạo hứng thú cho các đối tượng có trình độ nhận thức và xu hướng khác nhau, nên chưa phát huy được tính chủ động sáng tạo của các em. Giáo dục nhà trường chưa thật sự gắn kết với đời sống xã hội, chưa tận dụng được những sự kiện thực tiễn lớn để minh họa, để dẫn dắt giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh. Nhà trường chưa thực hiện tốt việc giáo dục tích hợp giữa các môn học, chưa khai thác được thế mạnh của từng môn học để lồng ghép giáo dục kiến thức xã hội và giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh.
Nhà trường và gia đình chưa tạo được mối liên kết chặt chẽ, chưa có các biện pháp phối hợp giáo dục chấn chỉnh kịp thời những sai sót, phòng ngừa những hành vi lệch chuẩn, suy thoái trong đạo đức, lối sống của học sinh.
7. Biện pháp giáo dục phòng ngừa những hành vi lệch chuẩn trong đạo đức, lối sống của học sinh phổ thông
Một là, nâng cao năng lực giáo dục gia đình:
Ngành giáo dục nên biên soạn các tài liệu về giáo dục gia đình, về đạo đức, lối sống truyền thống và hiện đại của thế giới văn minh cho phụ huynh học sinh tham khảo.
Các nhà xuất bản nên xuất bản phổ biến những tài liệu về phương pháp giáo dục gia đinh và phương pháp phòng ngừa những hành vi lệch chuẩn trong đạo đức, lối sống cho học sinh.
Ngành giáo dục nên tổ chức hội thảo khoa học về giáo dục gia đình trong giới khoa học, đội ngũ nhà giáo và đông đảo các bậc phụ huynh tham gia.
Thường xuyên tổ chức tập huấn về giáo dục gia đình cho các bậc phụ huynh ở các nhà trường, các địa phương, nên cung cấp tài liệu đến tay người cần sử dụng.
Thành lập các nhóm tư vấn giáo dục gia đình trong các nhà trường, địa phương, cần tổ chức những buổi gặp gỡ giữa phụ huynh và các chuyên gia tâm lý để được tư vấn, hỗ trợ những điều cần thiết.
Hai là, nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường
Khoa học và thực tiễn đều khẳng định giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh tốt nhất là thông qua giảng dạy các môn khoa học nhằm nâng cao năng lực nhận thức và năng lực tư duy độc lập cho các em.
Nâng cao chất lượng giảng dạy các môn học khoa học xã hội và nhân văn, các môn đạo đức, giáo dục công dân, kinh tế - pháp luật, lịch sử dân tộc, lịch sử cách mạng và lịch sử văn hóa … phục vụ cho mục tiêu giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh.
Giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh cần tác động đến cả ba mặt: nhận thức, thái độ và hành vi đạo đức giúp các em có đủ kiến thức, kỹ năng và bản lĩnh tự tin để xử lý mọi tình huống phức tạp trong quan hệ xã hội.
Phương pháp dạy học nên giảm thuyết trình, thay vào đó là tổ chức cho học sinh thảo luận, phân tích, liên hệ, nêu kế hoạch hành động, phấn đấu. Nên sử dung phương pháp trò chơi đóng vai xử lý các tình huống giao tiếp xã hội.
Tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động ở địa phương như vận động quyên góp ủng hộ người nghèo, người gặp nạn trong thiên tai, bão lụt... đây là trường học lớn để giáo dục, rèn luyện con người.
Cho học sinh tham dự các ngày lễ kỷ niệm lịch sử đất nước, các lễ hội văn hóa ở địa phương để giáo dục cho học sinh biết kế thừa và phát huy truyền thống lịch sử, văn hóa của dân tộc.
Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về văn hóa, đạo đức, lối sống của các dân tộc, hàng năm tổ chức hội thi “học sinh thanh lịch” để các em được tự do thể hiện bản thân.
Thường xuyên tổ chức cho học sinh xem phim về các nhà khoa học, nhà văn, doanh nhân, người lao động đặc biệt xuất sắc, những tấm gương học sinh nghèo học giỏi, vượt khó tiêu biểu trong nước và quốc tế.
Tổ chức tốt các buổi họp lớp cuối tuần để sơ kết những kết quả học tập và tu dưỡng của cá nhân, tổ, lớp, tổ chức buổi chào cờ đầu tuần một cách trang nghiêm để tuyên dương những học sinh có thành tích xuất sắc...
Tổ chức các phong trào thi đua rèn luyện đạo đức, lối sống văn minh trong lớp, trong trường, cuối năm tổng kết nêu gương, khen thưởng các em có thành tích tốt. Nên tổ chức cho học sinh bình chọn những học sinh xuất sắc để chi đoàn xem xét giới thiệu với chi bộ kết nạp vào đảng.
Nên quy định hạn chế học sinh sử dụng điện thoại trong giờ học, tiến tới cấm hẳn việc mang điện thoại đến trường. Nghiêm cấm học sinh mang theo công cụ hỗ trợ, vũ khí sát thương đến trường.
Cần cho học sinh làm quen với các luật cơ bản, cho các em biết quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, những điều được làm và không được phép làm, những hình phạt nghiêm khắc nếu vi phạm pháp luật.
Ba là, Nâng cao chất lương và hiệu quả phối hợp giữa các lực lượng giáo dục
Cần xây dựng mối quan hệ mật thiết giữa gia đình, nhà trường và xã hội một cách thiết thực và hiệu quả, để phối hợp giải quyết mọi tình huống có thể xảy ra đối với học sinh.
Có kênh liên lạc thường xuyên giữa nhà trường, gia đình với chính quyền, đoàn thể địa phương, với các cơ quan bảo vệ pháp luật, nhằm phát hiện và ngăn chặn kịp thời những hành vi thiếu chuẩn mực của học sinh trong và ngoài nhà trường.
Đội Thiếu niên, Đoàn Thanh niên cần có nội dung sinh hoạt phong phú, hấp dẫn, với nghi thức nghiêm trang để giáo dục lối sống có kỷ luật cho đội viên, đoàn viên. Nên tổ chức cho các lớp đọc báo Đội, báo Đoàn, mở các lớp tìm hiểu về Đảng, để chi đoàn thanh niên được giới thiệu các đoàn viên xuất sắc cho chi bộ kết nạp vào Đảng.
Nhà trường thông báo kịp thời các sự kiện đang diễn biến trong nước, trong trường bằng các bảng tin, đài truyền thanh, buổi chào cờ đầu tuần cho học sinh nắm bắt, theo dõi diễn biến.
Kết luận
Đạo đức, lối sống là những phẩm chất quan trọng của nhân cách, con người sống phải có đạo đức, có ích cho bản thân, gia đình và xã hội. Con người không có đạo đức là người vô dụng.
Giáo dục đạo đức là một nội dung giáo dục quan trọng trong nhà trường góp phần giáo dục nhân cách toàn diện cho học sinh, cần sử dụng các phương pháp và hình thức tổ chức đa dạng, hấp dẫn phù hợp với đặc điểm tâm lý lứa tuổi học sinh.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hành vi lệch chuẩn trong đạo đức, lối sống của học sinh. Do vậy cần có những biện pháp ngăn chặn kịp thời những nguy cơ làm suy thoái đạo đức lối sống của học sinh.
Nhà trường cần phối hợp với gia đình, chính quyền và các cơ quan, đoàn thể địa phương sớm phát hiện những hành vi lệch chuẩn trong và ngoài nhà trường, để cùng tìm ra các biện pháp ngăn chặn, uốn nắn kịp thời.
Tài liệu tham khảo
1. Hồ Chí Minh (1983), Về đạo đức, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ XIII, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Nghị quyết số 29-NQ/TW 04/11/2013 của BCHTW lần thứ 8, khóa XI “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội.
4. Chỉ thị số 31/CT-TTg ngày 04/12/2019 của Thủ tướng Chính phủ “Về tăng cường giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên”
5. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ ngày 03/10/2018 Phê duyệt Đề án “Xây dựng văn hóa ứng xử trong trường học giai đoạn 2018-2025”.
6. Lê Vân Anh, (2013), Giải pháp ngăn ngừa hành vi bạo lực trong học sinh trung học phổ thông, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, Đề tài Khoa học và Công nghệ cấp Bộ.
7. Nguyễn Thị Thanh Bình - Nguyễn Thị Mai Lan, (2013), Bạo lực học đường ở Việt Nam hiện nay nhìn từ góc độ tâm lí học, NXB Từ điển Bách khoa.
8. Phạm Viết Vượng (2010) Giáo dục học NXB Đại học Sư phạm Hà Nội.
9. Phạm Viết Vượng (2016) Lý luận gáo dục NXB Giáo dục Hà Nội.
PGS.TS. Phạm Viết Vượng
Trường ĐHSP Hà Nội