1. Nghiên cứu & kinh nghiệm
  2. >
  3. Giáo dục Việt Nam

ĐỔI MỚI GIÁO DỤC Ở CÁC NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI TRƯỚC TÁC ĐỘNG CỦA CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP LẦN THỨ TƯ VÀ YÊU CẦU CỦA CHIẾN TRANH HIỆN ĐẠI

08:02 | 20/06/2025
aA

 

PGS.TS Trần Đình Tuấn

Viện Nghiên cứu hợp tác phát triển giáo dục

 

1. Mở đầu:

Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (Fourth industrial Revolution, gọi tắt là FIR) đến nay đã trở thành vấn đề phổ biến trong nhiều diễn đàn khoa học và trong cuộc sống hàng ngày. Đặc trưng nổi trội của FIR là Internet thông minh, công nghệ di động không dây, trí tuệ nhân tạo và sự kết nối vạn vật, không chỉ tạo ra “môi trường cộng sinh” giữa người và robot mà còn tạo ra "môi trường cộng sinh” giữa thế giới ảo và thế giới thực [4]. Những thành tựu của FIR đã và đang thâm nhập ngày càng sâu, rộng vào mọi lĩnh vực đời sống xã hội vừa tạo ra cơ hội lớn, vừa đặt ra thách thức mới làm khuynh đảo cả tư duy và hoạt động truyền thống của con người. Trong lĩnh vực giáo dục, gần đây với sự thâm nhập của trí tuệ nhân tạo ChatGPT đã làm cho không ít cán bộ quản lý và các giáo viên, giảng viên bị choáng váng và bất lực trong phương thức quản lý, thậm chí một số quốc gia phải ban hành văn bản cấm sử dụng trong nhà trường. Đặc biệt trong lĩnh vực quân sự, việc ứng dụng thành tựu của FIR đã và đang cho ra đời một thế hệ vũ khí mới làm thay đổi cả tư duy quân sự và phương thức tác chiến của quân đội các quốc gia.

Nhà trường quân đội là nơi vừa chịu sự tác động của FIR trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, vừa chịu sự trác động trong lĩnh vực quân sự. Vì vậy, việc đổi mới giáo dục, đào tạo ở các nhà trường quân đội trong bối cảnh hiện nay là rất cấp thiết, cần phải đi trước các nhà trường khác và cần phải đổi mới nhanh hơn, triệt để hơn, trên diện rộng hơn. Bài viết này sẽ cung cấp một số thông tin về sự tác động của FIR đến lĩnh vực quân sự được tú ra từ thực tiễn các cuộc chiến tranh đang nổ ra ở các khu vực khác nhau trên thế giới. Từ đó đề xuất một số giải pháp đổi mới phương thức giáo dục, đào tạo ở các nhà trường quân đội hiện nay.

 

 

2. Nội dung nghiên cứu

2.1. Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đối với lĩnh vực khoa học quân sự

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (FIR) đã và đang tác động mạnh mẽ, đa chiều tới mọi lĩnh vực như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh… với các cấp độ từ toàn cầu đến châu lục, khu vực và trong từng quốc gia. Trong lĩnh vực quân sự, nhiều thành tựu nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ đã được đưa vào ứng dụng rộng rãi, như: vũ khí thông minh, máy bay không người lái, tên lửa hành trình điều khiển từ xa, xe quân sự tự hành, robot trinh sát, rô bốt tác chiến, ứng dụng mô phỏng trong huấn luyện, hệ thống chỉ huy, điều khiển, tình báo và trinh sát v.v…  Với tốc độ phát triển của công nghệ và thực tiễn chiến trang trên các chiến trường hiện nay, có thể dự đoán rằng, trong tương lai không xa sẽ xuất hiện nhiều loại vũ khí công nghệ cao có sức mạnh còn hơn cả vũ khí nguyên tử, làm thay đổi cả tư duy quân sự và phương thức tác chiến. Với sự hỗ trợ của trí tuệ nhân tạo, người ta có thể chế tạo ra rô bốt chiến đấu thay cho con người. Cũng có thể chế tạo ra vũ khí laser tử thần không chỉ tiêu diệt, vô hiệu hóa UAV mà còn có thể tạo ra tia lửa thần đốt cháy đối phương hoặc làm cho quân lính của đối phương bị rối loạn trí nhớ, bủn rủn tay chân, không thể điều khiển được vũ khí, khí tài trong chiến đấu, mức cao hơn là không có khả năng tự phục vụ bản thân.

Thực tiễn cuộc chiến tranh đặc biệt giữa Nga và Ukraina cũng như chiến tranh giữa Iran và Israel đang diễn ra cho thấy, tác chiến điện tử đã trở thành một phương thức tác chiến chủ yếu. Vũ khí, khí tài quân sự công nghệ cao của Nga và các nước phương Tây đang được triển khai phổ biến trên chiến trường. Trình độ làm chủ khoa học, công nghệ của người lính cộng với mức độ hiện đại của vũ khí, khí tài được sử dụng trên chiến trường là yếu tố quyết định tạo thành sức mạnh để chiến thắng đối phương. Người lính trên chiến trường trở thành người điều khiển các phương tiện máy móc kỹ thuật và vũ khí, đòi hỏi họ phải có năng lực xử lý tình huống trong môi trường không gian mạng thường xuyên biến động theo diễn biến thực tiễn. Đối với người chỉ huy trong chiến tranh công nghệ cao phải có năng lực phân tán tương tác trên không gian mạng. Nghĩa là, với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin, người chỉ huy cùng một lúc có thể tương tác với nhiều phương tiện vũ khí, kỹ thuật tác chiến khác nhau của các đơn vị thuộc nhiều quân, binh chủng trên toàn chiến trường. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang tác động to lớn, toàn diện tới phương thức chỉ huy điều hành tác chiến và tác chiến trực tiếp trên chiến trường. “Đối với các nhà trường quân đội, thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang làm thay đổi nội dung, phương pháp, phương tiện và hình thức tổ chức huấn luyện, đào tạo của các nhà trường” [3].

Về mặt tích cực, những thành tựu của FIR vừa tạo ra cơ hội, vừa đặt ra yêu cầu để hiện đại hóa quân đội cả về vũ khí, trang thiết bị kỹ thuật quân sự, cả về biên chế, tổ chức và phương thức tác chiến. Đây là cơ hội để nền quốc phòng Việt Nam có thể hội nhập quốc tế sâu rộng hơn, tiếp thu những thành tựu khoa học, công nghệ quân sự tiên tiến của các quốc gia có nền khoa học, công nghệ phát triển và có thể đi tắt đón đầu sự phát triển của thời đại về những lĩnh vực mà chúng ta có ưu thế.

Về mặt thách thức mới, hệ quả của FIR sẽ tạo ra những đột biến làm khuynh đảo tất cả các lĩnh vực hoạt động của xã hội, dẫn đến sự thay đổi, biến đổi khó lường, nếu không theo kịp sự biến động đó sẽ dẫn đến tụt hậu, bị bỏ rơi lại phía sau. Đối với quân đội, sự cạnh tranh trong lĩnh vực quân sự giữa các quốc gia càng mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn. Sự phát triển nhanh chóng của các thế hệ vũ khí công nghệ cao sẽ làm nảy sinh các phương thức tác chiến mới, dẫn đến sự đòi hỏi mới về tổ chức, biên chế làm cho chính sách quốc phòng, an ninh thường xuyên phải điều chỉnh. Vì thế, giáo dục, đào tạo trong các nhà trường quân đội vừa phải thường xuyên cập nhật thành tựu của FIR, vừa phải theo dõi bám sát các phương thức tác chiến mới, các vũ khí công nghệ cao đời mới đang được sử dụng trên các chiến trường, các cuộc chiến tranh trên thế giới.

2.2. Những vấn đề đặt ra đối với nhà trường quân đội

Cuộc chạy đua giữa các quốc gia trong việc ứng dụng thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã tạo ra một bước đột phá nhảy vọt trong lĩnh vực khoa học quân sự. Nhiều vũ khí và trang thiết bị quân sự công nghệ cao xuất hiện, lực lượng tác chiến điện tử ngày càng phát triển và trở thành lực lượng trung tâm trên chiến trường. Điều đó không chỉ làm thay đổi phương thức tác chiến mà còn làm thay đổi cả biên chế, tổ chức của quân đội. Những yêu cầu mới về năng lực chỉ huy và năng lực tác chiến của cán bộ, chiến sĩ được đặt ra. Các phương thức hoạt động tác chiến thủ công hoặc hoạt động theo quy trình công nghiệp cơ học được chuyển sang phương thức hoạt động theo quy trình công nghiệp điện tử. Bối cảnh đó thúc đẩy quá trình số hóa được diễn ra như một yêu cầu tất yếu.

Mặt khác, FIR đã và đang tấn công vào mọi khâu, mọi bước, mọi thành tố của quá trình giáo dục trong các nhà trường quân đội nói chung, vào nhận thức và tổ chức quá trình giáo dục và đào tạo nói riêng. FIR sẽ tác động làm thay đổi nhận thức, tư duy của đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên và học viên ở các nhà trường quân đội về phương thức tổ chức giáo dục, đào tạo theo quy trình công nghệ điện tử. Không chỉ số hóa về nguồn dữ liệu học tập mà còn phải số hóa cả quy trình quản lý, điều hành trong các hoạt động quản lý giáo dục, đào tạo.

Nhà trường quân đội vừa có chức năng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng cho nhu cầu phát triển của quân đội, vừa có chức năng nghiên cứu khoa học, đi trước, đón đầu sự phát triển của thực tiễn. Với sự xuất hiện của các loại vũ khí mới, phương thức tác chiến mới, đồng thời với đó là sự ban hành các chính sách quốc phòng, an ninh mới. Tất cả các điều này sẽ làm thay đổi chương trình, nội dung, phương pháp, phương tiện và phương thức tổ chức giáo dục, đào tạo ở các nhà trường quân đội.

Trong giáo dục, đào tạo ở các nhà trường quân đội sẽ xuất hiện các thiết bị dạy học thông minh gắn với từng cá nhân người dạy và người học, như kính internet, tai nghe internet có thể giúp đọc dịch ngoại ngữ trực tiếp, hoặc giải những bài toán phức tạp trong dạy học. Trong chương trình, nội dung đào tạo sẽ xuất hiện các nội dung mới cập nhật với thực tiễn phát triển của khoa học quân sự, với chính sách quốc phòng, an ninh mới. Đồng thời sẽ xuất hiện các loại hình giáo dục, đào tạo mới, như đào tạo trực tuyến, đào tạo từ xa, nhà trường ảo, lớp học ảo, nhóm bạn học ảo, phòng thí nghiệm ảo, thư viện số, thực hành trên mô hình mô phỏng. Sự liên kết trong đào tạo trực tuyến, đào tạo từ xa, giữa lớp học thực với lớp học ảo sẽ diễn ra khá phổ biến. Như vậy, trên không gian mạng sẽ xuất hiện những nội dung, chương trình đào tạo khác nhau, với những xu hướng quan điểm chính trị khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Đây là vấn đề mới đặt ra trong quản lý nhà trường.

2.3. Đổi mới giáo dục ở các nhà trường quân đội là yêu cầu tất yếu và cấp thiết hiện nay

Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã và đang tạo ra các nền tảng công nghệ cho sự đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo ở các nhà trường quân đội theo hướng số hóa. Thực chất của chuyển đổi số ở các nhà trường quân đội hiện nay là ứng dụng những thành tựu của khoa học, công nghệ hiện đại vào quá trình đổi mới giáo dục, đào tạo, nhằm tạo ra những quy trình công nghệ giáo dục tối ưu, hướng vào nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục. Quá trình chuyển đổi số trong giáo dục, đào tạo ở các nhà trường quân đội được thực hiện các phương thức cơ bản như sau:

Thứ nhất, sử dụng thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 để hiện đại hóa các phương tiện, thiết bị dạy học; vận dụng các thành tựu của công nghệ số thực hiện số hóa các nguồn tài liệu dạy học, xây dựng các thư viện số và kho dữ liệu số, xây dựng nhà trường thông minh. 

Thứ hai, phát triển đa dạng hóa các phương thức đào tạo. Kết hợp dạy học trực tiếp với dạy học trực tuyến, giữa môi trường thực với môi trường ảo, liên kết giữa nhà trường với các đơn vị trong các hình thức huấn luyện tổng hợp, diễn tập thực hành tác chiến theo chương trình đào tạo.

Thứ ba, xây dựng các quy trình công nghệ trong quản lý nhà trường, quản lý chương trình, nội dung dạy học, quản lý đội ngũ giảng viên, học viên và quản lý các nguồn lực của nhà trường quân đội. Về thực chất, đây là quá trình số hóa ­­­­trong quản lý nhà trường quân đội.

Như vậy, chuyển đổi số trong giáo dục, đào tạo ở các nhà trường quân đội là là một xu hướng tất yếu của thời đại công nghệ, được thực hiện đồng bộ với quá trình xây dựng, phát triển hiện đại hóa Quân đội. Đây là một xu hướng chủ đạo trong đổi mới giáo dục hiện nay ở các trường Quân đội.

2.4. Giải pháp đổi mới giáo dục, đào tạo ở các nhà trường quân đội

Một là, nâng cao nhận thức cho cán bộ, giảng viên, tạo sự đồng thuận trong ứng dụng thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 vào quá trình đổi mới giáo dục.

Chuyển đổi số là bước chuyển mình mạnh mẽ, đòi hỏi sự thay đổi từ trong tư duy, nhận thức của mỗi người. Do vậy, cần thực hiện các biện pháp nhằm nâng cao nhận thức, phổ cập tầm quan trọng cho cán bộ, giảng viên, nhân viên và học viên của các nhà trường. Trên cơ sở đó mới phối hợp cùng nhau xây dựng văn hóa số trong giáo dục.

Đồng thời với giáo dục nâng cao nhận thức cho các lực lượng trong nhà trường về vai trò, tầm quan trọng của công nghệ số hóa trong giáo dục phải tiến hành hướng dẫn, nâng cao kỹ năng nghiệp vụ trong ứng dụng công nghệ số cho tất cả những người làm công tác giảng dạy, phục vụ giảng dạy, như kỹ năng công nghệ thông tin, an toàn thông tin trên môi trường số… Bồi dưỡng năng lực sử dụng công nghệ số cho đội ngũ cán bộ, giảng viên. Giảng viên đóng vai trò quyết định trong thực hiện chuyển đổi số trong giáo dục ở các nhà trường. Giảng viên phải được bồi dưỡng và tự bồi dưỡng để nâng cao năng lực sử dụng công nghệ số trong các hoạt động giáo dục, đào tạo. Giảng viên phải chủ động, tích cực áp dụng công nghệ số trong phương pháp giảng dạy, mở ra nhiều cơ hội để tăng cường chất lượng giáo dục và giúp học viên phát triển toàn diện trong thế giới số hóa ngày càng phát triển.

Đối với các nhà trường quân đội, quá trình đổi mới giáo dục, đào tạo không chỉ đáp ứng yêu cầu của FIR mà còn phải bám sát thực tiễn các cuộc chiến tranh hiện đại đang nổ ra ở các khu vực khác nhau trên thế giới, cập nhật các phương thức tác chiến điện tử của vũ khí công nghệ cao.

Hai là, vận dụng các thành tựu của công nghệ số thực hiện số hóa các nguồn tài liệu dạy học, xây dựng và bảo mật kho dữ liệu số của nhà trường quân đội.

Đây là mô hình chuyển đổi số về nội dung, chương trình đào tạo. Nội dung chủ yếu của mô hình này là xây dựng kho dữ liệu số phục vụ cho hoạt động dạy, nghiên cứu khoa học của cán bộ, giảng viên và hoạt động học của học viên. Mô hình này đòi hỏi các nhà trường phải thực hiện số hóa chương trình đào tạo và các nguồn thông tin khoa học, thông tin quân sự cập nhật. Xây dựng cấu trúc chi tiết nội dung các chuyên đề, các chủ đề cho từng đối tượng học viên. Xây dựng kho dữ liệu các bài giảng điện tử, các tài liệu tham khảo, các hình ảnh, số liệu, tư liệu đính kèm với các chuyên đề, chủ đề, bài giảng. Kho dữ liệu này thường xuyên được bổ sung, phát triển mở rộng theo các năm học, các lớp học và được cơ quan chức năng, thư viện phối hợp với khoa chuyên ngành sắp xếp theo từng mảng nội dung sao cho tiện lợi khi sử dụng.

Một mảng rất quan trọng của kho dữ liệu này là kiến thức kinh nghiệm thực tiễn do người học mang đến; các thông tin tình báo và thông tin của các nhà nghiên cứu về thực tiễn chiến tranh, thực tiễn phát triển quân sự ở các quốc gia trên thế giới. Các bài viết thu hoạch và các ý kiến của học viên về kinh nghiệm thực tiễn ở các đơn vị quân đội có liên quan đến nội dung môn học. Đây là nguồn tài liệu thực tiễn minh họa cho các nội dung lý luận, làm cho lý luận gắn với thực tiễn.

Xây dựng thư viện số phục vụ cho cả người dạy và người học, thực hiện học mọi lúc, mọi nơi. Cán bộ, giáo viên, học viên có thể truy cập vào thư viện để tìm các nguồn tại liệu theo nhu cầu ở bất cứ thời gian và địa điểm nào, không cần phải trực tiếp lên thư viện. Thư viện số bao gồm các nguồn sách, các tài liệu được số hóa và các bản thông tin khoa học cập nhật mới nhất từ các nguồn khác nhau. Tuy nhiên, phải phân cấp quản lý các nguồn dữ liệu theo mức độ bí mật thông tin quân sự.

Ba là, vận dụng các thành tựu của công nghệ số phát triển đa dạng các phương thức đào tạo, kết hợp giữa dạy trực tiếp với dạy trực tuyến, giữa môi trường thực với môi trường ảo, xây dựng nhà trường quân đội theo mô hình phân tán tương tác thông minh. 

Kết hợp giữa dạy trực tiếp với dạy trực tuyến đã và đang được sử dụng trong thực tiễn. Mô hình này được thực hiện bằng nhiều phương thức khác nhau. Giảng viên có thể thực hiện bài giảng bằng cách kết nối các đầu cầu để liên kết giữa các nhà trường hoặc giữa các đơn vị trong toàn quân như kiểu truyền hình trực tiếp vẫn thường làm. Cũng có thể liên kết bài giảng với các hình ảnh, các nội dung được chuẩn bị trước trong kho dữ liệu.

Trong huấn luyện quân sự, "phân tán tương tác" đề cập đến việc sử dụng các phương pháp và kỹ thuật huấn luyện khác nhau để tạo ra sự tương tác giữa các quân nhân, đồng thời phân tán họ trên một khu vực rộng lớn. Mục tiêu là mô phỏng các tình huống chiến đấu thực tế, nâng cao khả năng thích ứng, phối hợp và khả năng làm việc độc lập trong môi trường chiến trường đa dạng và đầy thách thức. Cấp độ cao hơn, xây dựng mô hình nhà trường phân tán tương tác thông minh là vận dụng thành tựu của trí tuệ nhân tạo AI và công nghệ số để liên kết giữa các nhà trường quân đội với nhau và liên kết giữa nhà trường với các đơn vị, các quân, binh chủng để thực hiện các nội dung huấn luyện tổng hợp, hoặc diễn tập trong huấn luyện. Phương pháp phân tán tương tác trong huấn luyện ở các nhà trường quân đội sẽ giúp cho các học viên trải nghiệm thực tiễn chiến đấu hợp đồng quân, binh chủng trong môi trường tác chiến điện tử có sự hỗ trợ của trí tuệ nhân tạo AI.

Kết hợp giữa môi trường thực với môi trường ảo trong đào tạo. Hiện nay ở các nhà trường Không quân, Hải quân và một số nhà trường kỹ thuật đã triển khai mua sắm, xây dựng các phòng học ảo với các thiết bị mô phỏng để thực hành, thực tập cho học viên. Trước khi thực hành trong môi trường thực các học viên bắt buộc phải thực hành trong môi trường ảo. Trong tương lai, các phòng học ảo này sẽ được liên kết với nhau để sử dụng trong các khoa mục huấn luyện diễn tập tổng hợp. Với sự hỗ trợ của trí tuệ nhân tạo AI, các mô hình ảo sẽ được thiết kế lập trình có quân xanh, quân đỏ, có các quân, binh chủng để tác chiến như thật. Trong một số trường hợp, học viên chỉ được thực hành trong môi trường ảo mà không được thực hành trong môi trường thực.

Kết hợp giáo dục, đào tạo với nghiên cứu khoa học. Nhà trường quân đội là nơi tập hợp các nhà khoa học có trình độ chuyên môn cao. Mỗi nhà trường phải có một cơ sở nghiên cứu khoa học chuyên ngành. Các cơ sở nghiên cứu khoa học phải hợp đồng với Bộ Quốc phòng để nghiên cứu các phương thức tác chiến trong tranh hiện đại, chiến tranh công nghệ cao từ thực tiễn các cuộc chiến tranh đang diễn ra trên thế giới. Từ đó, nghiên cứu tìm ra phương thức đào tạo mới của nhà trường và nghiên cứu chế tạo các loại vũ khí, khí tài mới cho quân đội.

Bốn là, vận dụng các thành tựu của công nghệ số xây dựng các quy trình công nghệ trong quản lý nhà trường, quản lý chương trình, nội dung dạy học, quản lý đội ngũ giảng viên, học viên và quản lý các nguồn lực của nhà trường quân đội.

Để quản lý theo công nghệ số trước hết cần phải xây dựng kho dữ liệu số phục vụ cho hoạt động quản lý giáo dục, đào tạo của nhà trường. Đây là kho dữ liệu bao gồm các văn bản quản lý của nhà trường và của các cơ quan chức năng các cấp được số hóa. Hồ sơ cán bộ, giảng viên, học viên được số hóa. Theo định kỳ các văn bản và hồ sơ phải được cập nhật, bổ sung thông tin. Để quản lý theo năng lực thì hồ sơ của các đối tượng quản lý, nhất là của học viên cần phải được phân loại theo năng lực cá nhân.  

Quản lý theo phương thức số hóa đòi hỏi phải có phương thức phân cấp quản lý các nguồn dữ liệu số trong nhà trường. Cấp nào được truy cập đến đâu phải có quy định rõ ràng. Đặc biệt đối với các tài liệu mật cần phải có phương thức quản lý theo chế độ mật. Số hóa là điều kiện bắt buộc để xây dựng trường học thông minh. Đặc biệt, đối với quản lý năng lực của học viên bằng công cụ số sẽ tạo điều kiện cho giáo viên và các cấp quản lý nắm chắc về quá trình phát triển năng lực của từng học viên.   

Ngoài luật quản lý mạng xã hội, các nhà trường phải có quy chế quản lý môi trường ảo của học viên phù hợp với chương trình, nội dung học tập và phù hợp đặc điểm hoạt động của lĩnh vực quân sự. Thực tiễn đã chứng minh, đôi khi môi trường ảo có tác động đến học viên mạnh hơn môi trường thực. Điều đó đòi hỏi các nhà trường phải chủ động xây dựng môi trường ảo và quản lý các hoạt động trên môi trường ảo của học viên. Phương thức chung là tổ chức các nhóm nòng cốt để điều khiển hoạt động trên mạng xã hội của học viên từng lớp và trong toàn trường. Cán bộ quản lý và giảng viên có thể tham gia nhóm hoặc nắm và điều khiển các hoạt động của học viên thông qua nhóm trưởng.

Một vấn đề quan trọng của số hóa nhưng ít người quan tâm đó là số hóa quy trình công nghệ hoạt động của các cơ quan chức năng trong lĩnh vực giáo dục đào tạo nói chung và các nhà trường nói riêng. Điều này đòi hỏi mọi hoạt động giáo dục, đào tạo phải được thực hiện theo một quy trình như dây truyền công nghệ. Các nhà trường phải thiết kế các hoạt động theo một logic khoa học và theo kế hoạch các khâu, các bước rằng buộc lẫn nhau, hỗ trợ cho nhau, chỉ cần một khâu nào đó chậm là cả dây truyền bị ách tắc. Khi đã số hóa quy trình quản lý thì việc phân cấp quản lý phải rõ ràng, ai làm việc nào, khâu nào, thời gian hoàn thành phải được quy định nghiêm ngặt. Số hóa quy trình làm việc sẽ khắc phục được tình trạng thủ công, làm việc theo ngẫu hứng, thích thì làm, không thích thì thôi.

Năm là, hoàn thiện các điều kiện đảm bảo cho hoạt động chuyển đổi số trong giáo dục, đào tạo ở các nhà trường quân đội.

Điều kiện quan trọng nhất của chuyển đổi số trong giáo dục ở các nhà trường quân đội hiện nay là xây dựng và quản lý cơ sở dữ liệu số. Trước hết cần tập trung các giải pháp nhằm xây dựng CSDL gốc - Master Data, của từng nhà trường và của tất cả các nhà trường trong toàn quân. Tạo sự đồng bộ cơ sở dữ liệu của các hệ thống nhằm khắc phục tình trạng cơ sở dữ liệu rời rạc, thiếu tập trung. Từng bước liên thông kết nối, tương tác dữ liệu giữa các nhà trường, học viện trong toàn quân. Đảm bảo hệ thống vận hành ổn định và an toàn.

Xây dựng cơ sở dữ liệu phải gắn với quản lý, khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu sao cho hợp lý. Những dữ liệu sau khi được tạo ra sẽ được gắn với một mã số định danh và được cơ quan chức năng quản lý lưu trữ tập trung tại kho dữ liệu dùng chung của nhà trường. Các mô hình dữ liệu trong cơ sở dữ liệu dùng chung được cơ quan phân phối dữ liệu chuyển đến đúng đối tượng được cấp phép khai thác, tránh trường hợp cung cấp dữ liệu đến sai đối tượng, hoặc cung cấp dữ liệu tràn lan. Việc khai thác, sử dụng các nguồn dữ liệu được thực hiện theo chức năng của từng nhóm đối tượng. Quá trình khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu cũng là quá trình phát hiện, điều chỉnh, hoàn thiện và phát triển kho dữ liệu của nhà trường.

Điều kiện quan trọng thứ hai là xây dựng hạ tầng mạng và các thiết bị công nghệ tiên tiến, đồng bộ. Hạ tầng mạng và các trang thiết bị phải được cải tiến, đổi mới khi chuyển đổi số trong giáo dục. Các nhà trường cần phải kết hợp sử dụng mạng internet với mạng LAN trong thực hiện các hoạt động giáo dục, đào tạo. Mặt khác, phải đầu tư mua sắm trang thiết bị máy móc dạy học tạo thành tính đồng bộ trong khai thác, sử dụng công nghệ điện tử vào các hoạt động giáo dục, đào tạo. Nếu trang bị không đồng bộ sẽ không sử dụng được.

Đảm bảo tính đồng bộ giữa các thiết bị, máy móc phần cứng đồng thời phải đồng bộ với các phần mềm chuyển đổi số trong dạy học. Ngày nay ngày càng xuất hiện nhiều phần mềm dạy học, nhưng cần phải xây dựng và lựa chọn các phần mềm quản lý theo hướng chuyển đổi số phù hợp với chương trình, nội dung đào tạo và phù hợp với điều kiện thực tiễn của nhà trường.

Điều kiện quan trọng thứ ba là hoàn thiện hệ thống pháp lý, ứng dụng phần mềm quản lý chuyển đổi số trong giáo dục, đào tạo ở các nhà trường quân đội. Việc hoàn thiện hệ thống pháp lý, chính sách sẽ đảm bảo quyền lợi cho người dạy, người học. Theo đó, cần thống nhất các quy định liên quan đến khai thác, chia sẻ dữ liệu, thông tin; quản lý điều kiện sử dụng môi trường ảo trong giáo dục; quản lý hình thức giảng dạy trực tuyến, quản lý nhân lực và các nguồn lực của nhà trường. Ngoài những quy định chung của Bộ Giáo dục và Đào tạo, cần xây dựng bộ quy chế quản lý của hệ thống nhà trường quân đội và các văn bản quản lý của từng nhà trường cụ thể.

3. Kết luận

Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang làm khuynh đảo mọi lĩnh vực hoạt động của xã hội. Trong đó, giáo dục là lĩnh vực bị tác động mạnh mẽ nhất. Giáo dục đang ở đỉnh điểm của sự bùng nổ, tạo thành làn sóng thứ 3 trong quá trình đổi mới trên phạm vi toàn thế giới. Những thành tựu về công nghệ số và trí tuệ nhân tạo AI đang trở thành trung tâm của sự bùng nổ. Bối cảnh đó vừa tạo ra thời cơ, vừa đặt ra yêu cầu bắt buộc các nhà trường quân đội phải chuyển đổi số trong giáo dục, đào tạo.

Vấn đề quan trọng nhất trong đổi mới giáo dục, đào tạo ở các nhà trường quân dội hiện nay là số hóa các nguồn tài liệu, xây dựng cơ sở dữ liệu số dùng chung cho nhiều đối tượng và xây dựng quy chế quản lý, khai thác sử dụng nguồn dữ liệu đó một cách tối ưu. Chuyển đổi số đòi hỏi mọi hoạt động quản lý của các cơ quan chức năng trong nhà trường phải được thực hiện theo quy trình công nghệ số.

Đổi mới giáo dục, đào tạo ở các nhà trường quân đội phải vừa cập nhật các thành tựu của FIR, vừa phải cập nhật thực tiễn tác chiến trong chiến tranh hiện đại từ các nước trên thế giới. Nhà trường vừa là cơ sở đào tạo, vừa nghiên cứu khoa học và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của các cuộc chiến tranh trên thế giới. Đó là tiêu chí để đánh giá mức độ hiện đại hóa của nhà trường, là điều kiện để nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo trong bối cảnh hiện nay.

Tài liệu tham khảo:

1. Clayton M. Christensen, Michael E. Raynor, và Rory McDonald (2015), “Đổi mới đột phá là gì?”, Tạp chí Harvard Business Review, tháng 12 năm 2015.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Nghị quyết số 29-NQ/TƯ, Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Văn phòng Trung ương Đảng. Hà Nội.

3. Học viện Chính trị (2019), Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến đào tạo cán bộ chính trị trong Quân đội hiện nay, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

4. Klaus Schwab (2017), Cuộc Cách mạng Công nghiệp Lần thứ tư, Diễn đàn kinh tế thế giới, Người dịch: Đồng Bích Ngọc và Trần Thị Mỹ Anh.

5. Manuel Castells (2014), “Ảnh hưởng của Internet đối với xã hội: Góc nhìn Toàn cầu”, MIT Technology Review, 8 tháng 9, 2014.

6. Thủ tướng Chính phủ (2020), Quyết định số 749/QĐ-TTg, ngày 03/6/2020 Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.

7. Trần Đình Tuấn (2023), Tác động của mạng xã hội, ChatGPT đến học sinh, sinh viên và giải pháp thích ứng của giáo dục. Kỷ yếu hội thảo khoa học toàn quốc, Hội Khoa học Tâm lý – Giáo dục, Nxb Lao động, HN 2023. Tr. 226-237.

8. Viện Nghiên cứu hợp tác phát triển giáo dục (2022), Dạy học trực tuyến, một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Lao động, Hà Nội.

 

Ý kiến bạn đọc
Đổi mới công tác đánh giá chất lượng giáo dục phổ thông cấp quốc gia
( GD&ĐT công bố dự thảo Thông tư về đánh giá diện rộng, hướng tới minh bạch, hiệu quả và hội nhập quốc tế )   TCGCVN - Ngày 07/7/2025, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) công bố Dự thảo Thông tư ban hành Quy định về đánh giá diện rộng cấp quốc gia chất lượng giáo dục phổ thông, chính thức lấy ý kiến góp ý rộng rãi trên Cổng thông tin điện tử của Bộ. Thông tư này khi được ban hành sẽ thay thế Thông tư số 51/2011/TT-BGDĐT ngày 03/11/2011, nhằm cập nhật yêu cầu mới trong đổi mới giáo dục và hội nhập quốc tế sâu rộng.
Hòa trong không khí tưng bừng của cả nước chào mừng tri ân các nhà giáo, vừa qua THCS-THPT Newton long trọng tổ chức “Lễ kỷ niệm 40 năm ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11” nhằm tôn vinh những thầy giáo, cô giáo đang từng ngày từng giờ say sưa trên bục giảng để cống hiến to lớn cho sự nghiệp trồng người.
Khi nói về công lao của những thầy, cô giáo đối với sự nghiệp giáo dục miền núi Nghệ An, không thể không nói đến cố Nhà giáo Ưu tú Lô Xuân Minh – cố Hiệu trưởng Trường THSP Miền núi Nghệ An.
Hằng năm, cứ vào mùa khai trường, vào những ngày của tháng 11, trong tâm trí tôi lại sống dậy mạnh mẽ những kỉ niệm vui buồn, sâu sắc của một thuở đi dạy học nhiều gian nan vất vả, nhiều khó khăn và thương nhớ. Với tôi, tình cảm tôn sư trọng đạo, đạo lí tôn sư trọng đạo luôn luôn âm thầm, sâu lắng nhưng cũng hết sức mạnh mẽ và cao cả. Xin chia sẻ đôi điều về những ngày thương khó của một thuở đi dạy học như là sự tri ân đối với nghề nghiệp cao quý mà mình đã mang duyên nợ suốt cả cuộc đời. Và, cũng từ những ngày dạy học thương khó đó rút ra được những suy ngẫm sâu sắc về truyền thống tôn sư trọng đạo trong dòng chảy văn hóa Việt.                           
Ngày 03/11/ 2022 Hội Cựu Giáo chức tỉnh Lạng Sơn tổ chức Hội nghị biểu dương hội viên tiêu biểu và Kỷ niệm 40 năm Ngày Nhà giáo Việt Nam (20/11/1982 - 20/11/2022)
Ngày 01/11/2022 Hội Cựu Giáo chức Học viện Ngân Hàng tổ chức Đại hội lần thứ 2 nhiệm kỳ 2022 -2027tại hội trường lớn Học viện Ngân hàng. Dự Đại hội có 158/235 hội viên đã được triệu tập. Đại hội vinh dự được đón tiếp các đại biểu, khách mời đại diện cho Hội Cựu giáo chức Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Công đoàn Ngân hàng Việt Nam, Lãnh đạo Học viện Ngân Hàng.  
GCVN: Kì thi Học sinh giỏi các môn văn hóa và khoa học được tổ chức thường niên là một hoạt động chuyên môn quan trọng nhằm đánh giá chất lượng giáo dục mũi nhọn của các trường THCS.
Dạy học trực tuyến là phương thức dạy học từ xa với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin, người dạy và người học thực hiện các hoạt động tương tác với nhau thông qua màn hình ảo nhằm thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ dạy học theo chương trình, kế hoạch đã xác định. Cơ sở khoa học của dạy học trực tuyến là các luận điểm triết học duy vật biện chứng về quy luật nhận thức của người học và những thành tựu của Tâm lý học, Giáo dục học hiện đại. Dạy học trực tuyến là xu thế tất yếu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, của quá trình chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục.
Kính lễ với người thầy là truyền thống đạo lý tốt đẹp của người Việt ta. Từ xa xưa người Việt hầu như ai từng đi học cũng đều thuộc câu ca: “Muốn sang thì bắc cầu kiều / Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy”. Yêu kính thầy cô, quý trọng tri thức và vì thế vị trí của người thầy luôn được đặt rất cao trong nấc thang xã hội. Theo đà phát triển của xã hội, một số quan niệm không còn phù hợp trong xã hội hiện đại; trong đó liên quan đến môi trường giáo dục, người học có thêm nhiều phương thức, tự do hơn trong học tập. Vai trò, vị thế của người thầy và quan hệ giữa thầy cô với học sinh, với cha mẹ học sinh cũng có những thay đổi. Giáo dục không còn đơn thuần một chiều, thụ động.
Hệ thống giáo dục 4.0 áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến, trên 3 ứng dụng: Một là, sử dụng các thiết bị thông minh để hỗ trợ cho giáo dục và đào tạo. Hai là, tổ chức các khóa học trực tuyến thông qua mạng Internet. Ba là, ứng dụng sáng tạo mở, kết hợp người học và máy tính để thực hiện các nhiệm vụ học tập sáng tạo.
Sáng ngày 18/10/2022, chương trình Báo cáo Dự án “Văn học sáng tạo” mùa 2 của thầy và trò trường TH - THCS Pascal (Q. Bắc Từ Liêm, Hà Nội) đã diễn ra thành công tốt đẹp. Các bạn học sinh với diễn xuất ấn tượng đã mang tới buổi báo cáo những tiểu phẩm sân khấu hóa đặc sắc được lấy cảm hứng từ các bài thơ, trường ca của nhà thơ Trần Đăng Khoa  và tái hiện lại trên sân khấu. Bên cạnh đó, các bạn học sinh đã cùng tham gia hoạt động trải nghiệm trưng bày, trao đổi sách vô cùng thú vị và bổ ích.
Đam mê công nghệ thông tin thôi thúc Nguyễn Văn Hiệp xin nghỉ việc, dành toàn thời gian học lập trình online ở tuổi 25 và chuyển nghề sau ba tháng.
Sau 5 ngày làm việc khẩn trương, nghiêm túc, nhiệt tình, trách nhiệm và hiệu quả, sáng 11/10/2022, Học viện Báo chí và Tuyên truyền phối hợp với Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục, Đại học Vinh tổ chức Lễ Bế mạc đợt khảo sát chính thức đánh giá chất lượng giáo dục 04 chương trình đào tạo trình độ đại học các ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học, Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, Xây dựng Đảng và Chính quyền Nhà nước, Kinh tế chính trị.
GD&TĐ - Hàng loạt giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục Tiểu học đã được ngành giáo dục Lào Cai đưa ra để các nhà trường triển khai, tháo gỡ.
GD&TĐ - Giờ dạy có sự hài hòa giữa lý thuyết, bài tập, thực hành để học sinh nắm vững nội dung cốt lõi nhưng không được cắt xén hay giảm tiết môn học.
Điện ảnh là ngành được xác định là tiên phong trong công nghiệp văn hóa ở Việt Nam. Làm sao để Điện ảnh phát triển, thực sự đem lại GDP, quảng bá văn hóa con người Việt Nam ra thế giới, chúng tôi đã có cuộc trò chuyện với ông Vi Kiến Thành- Cục trưởng Cục Điện ảnh để làm rõ hơn vấn đề này.
Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch Hàn Quốc mới đây cho biết nhạc hội văn hóa đầu tiên trong khuôn khổ triển lãm K Expo Vietnam 2022 đã diễn ra tại thủ đô Hà Nội, mở màn cho sự kiện giao lưu văn hóa giữa Hàn Quốc và Việt Nam.
Văn hóa giao thông có lẽ là thuật ngữ được nhiều người nhắc đến từ người tham gia giao thông cho đến các bạn học sinh khi còn ngồi ghế của nhà trường. Nhưng để hiểu văn hóa giao thông là gì? Và tham gia như thế nào để thể hiện sự văn hóa thì không phải ai cũng nắm rõ được. Hãy cùng Anycar tìm hiểu rõ vấn đề này qua bài viết này nhé!
(DNTO) - Trong giai đoạn hiện nay, rất nhiều doanh nghiệp vẫn chưa thành công trong chiến lược chuyển đổi số bởi rất nhiều nguyên nhân. Nhiều doanh nghiệp cho biết hiện tiến trình chuyển đổi số đang rất chậm do thiếu vốn, thiếu nguồn nhân lực và cả đơn vị cung cấp giải pháp.
(DNTO) - Tuần qua, bộ 3 cổ phiếu thép “đình đám” là CTCP Tập đoàn Hòa Phát HPG (+10,5%), Công ty Cổ phần Thép Nam Kim NKG (+14.9%), Công ty Cổ phần Tập đoàn Hoa Sen HSG (+19,9%), đều ghi nhận mức tăng khá ấn tượng.
GD&TĐ - Nếu nhiễm lại một tuýp virus dengue khác, bệnh nhân có thể bị nặng hơn, dễ trở thành sốt xuất huyết dengue hoặc sốc dengue.
GD&TĐ - Chào mừng 92 năm ngày phụ nữ Việt Nam, Công đoàn Formosa Hà Tĩnh tổ chức giải kéo co cho nữ công nhân với những trận đấu hấp dẫn, kịch tính.
Thay mặt Chính phủ, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Phạm Bình Minh vừa ký ban hành Nghị định số 83/2022/NĐ-CP ngày 18/10/2022 quy định về nghỉ hưu ở tuổi cao hơn đối với cán bộ, công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý.
GD&TĐ - Một siêu thị Điện Máy Xanh ở TP. Đà Nẵng đã bị mất 130 chiếc điện thoại trị giá hơn 1,2 tỷ đồng khi cho người dân vào tránh lụt đêm 14/10.
GD&TĐ - Đầu năm 2022, khoảng 75% trường học ở Mỹ yêu cầu học sinh, giáo viên đeo khẩu trang khi học trực tiếp, theo số liệu từ Trung tâm Thống kê Giáo dục quốc gia. Đến trước khi nghỉ hè, con số này giảm xuống 15%.
GD&TĐ - Trường ĐH Oxford, Anh, tiếp tục đứng đầu danh sách trường đại học thế giới năm 2023 của THE trong 7 năm liên tiếp.
GD&TĐ -Tại Hàn Quốc, chương trình giáo dục phổ thông không tổ chức dạy thể dục cho học sinh lớp 1 và lớp 2, những năm đầu tiểu học.
GD&TĐ - Nhiều gia đình khó khăn tại Indonesia buộc phải cho con nghỉ học do không đủ khả năng chi trả học phí.
GD&TĐ - Trung Quốc đang cần hàng triệu công nhân lành nghề để duy trì hoạt động của nền kinh tế như thợ sửa ô tô, chữa điện lạnh, kỹ thuật viên máy tính… Tuy nhiên, hệ thống giáo dục nghề nghiệp nước này đã rơi vào tình trạng hỗn loạn, khiến nền kinh tế của họ không đủ khả năng để thay thế hàng triệu người có tay nghề cao sắp nghỉ hưu trong bối cảnh dân số già và lực lượng lao động bị thu hẹp.
20 năm qua đã có rất nhiều ý kiến tâm huyết của cá nhân hoặc tập thể các nhà giáo dục, các nhà khoa học trong và ngoài nước đóng góp cho sự nghiệp GD-ĐT nước nhà. Có thể kể một số kiến nghị chính sau đây: Kiến nghị của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam cuối năm 1996(2), 2000(3), 2005(4); Kiến nghị của Đại tướng Võ Nguyên Giáp năm 2004-2006(5); Kiến nghị của 24 GS và nhà khoa học trong và ngoài nước do GS Hoàng Tụy chủ biên năm 2004(6); Đề án kiến nghị của nhóm trí thức người Việt ở nước ngoài do GS Vũ Quang Việt chủ biên năm 2005(7); Báo cáo “lựa chọn thành công” trong đó có một phần đánh giá về GD-ĐT của nhóm GS và chuyên gia thuộc trường Đại học Harvard trình trực tiếp thủ tướng cuối năm 2007(8); Kiến nghị của nhóm nghiên cứu đề tài khoa học cấp Nhà nước do bà Nguyễn Thị Bình làm chủ nhiệm 2008(9); Riêng mảng cơ cấu hệ thống giáo dục nói chung và hệ thống dạy nghề nói riêng có kiến nghị năm 2011(10) của Đặng Danh Ánh và một số kiến nghị của 30 nhà khoa học trong và ngoài nước đã được in thành sách năm 2007(11).
GD&TĐ -Từ năm học 2022 - 2023, Bộ Giáo dục Bờ Biển Ngà ban hành quy định học sinh có điểm trung bình năm học dưới 8,5 trên thang điểm 10 sẽ bị đuổi học.