1. Văn hóa

Đề cương Văn hoá Việt Nam với việc xây dựng nền Giáo dục Xã hội Chủ nghĩa tiên tiến, mang đậm bản sắc dân tộc

12:24 | 20/02/2023
aA

Năm 1943, đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh đã soạn thảo bản Đề cương văn hoá Việt Nam và được Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương họp thông qua vào tháng 2-1943. Bản Đề cương hoá Việt Nam nêu lên nguyên tắc dân tộc hóa, đại chúng hóa và khoa học hóa trong xây dựng nền văn hóa mới. Đề cương xác định văn hoá là một trong ba mặt trận cách mạng, chỉ ra mối quan hệ giữa cách mạng chính trị với cách mạng kinh tế và cách mạng văn hoá; khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng văn hoá.

 

Bản “Đề cương Văn hóa Việt Nam” do Tổng Bí thư Trường Chinh soạn thảo năm 1943.

Bản Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943 được cấu trúc gồm 5 phần:

Phần I: Cách đặt vấn đề.

Phần II: Lịch sử và tính chất văn hóa Việt Nam.

Phần III: Nguy cơ của văn hóa Việt Nam dưới ánh phát xít Nhật, Pháp.

Phần IV: Vấn đề cách mạng văn hóa Việt Nam.

Phần V: Nhiệm vụ cần kíp của những nhà văn hóa mác xít Đông Dương và nhất là của những nhà văn hóa mác xít Việt Nam.

Đề cương văn hóa năm 1943 là bản tuyên ngôn của một nền văn hóa cách mạng Việt Nam. Sau 80 năm, trải qua bao nhiêu thăng trầm, biến cố của lịch sử, nhưng nhiều luận điểm mang tính tư tưởng lớn trong bản Đề cương văn hóa ngày ấy vẫn có giá trị định hướng cho sự phát triển lý luận và thực tiễn văn hóa trong tình hình mới.

Nhìn lại lịch sử, năm 1943 là thời điểm hội tụ và phát triển khá mạnh mẽ của các trào lưu tư tưởng, văn hóa ở Việt Nam. Nhiều tác phẩm lớn, với nhiều tác giả tiêu biểu xuất hiện trên văn đàn. Đó là cơ sở lý luận trực tiếp cho sự xuất hiện của Đề cương văn hóa 1943. Về thực tiễn cách mạng, sau 13 năm ra đời và lãnh đạo các phong trào đấu tranh vô cùng quyết liệt, Đảng Cộng sản Việt Nam đã trưởng thành cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Học thuyết Mác - Lênin đã từng bước thâm nhập vào lĩnh vực văn hóa, vũ trang về lý luận cho sự phát triển của nền văn hóa cách mạng. Nhờ đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ý thức được phép biện chứng trong tác động trở lại của văn hoá đối với đời sống kinh tế, chính trị. Vì vậy, ngay trong phần mở đầu của Đề cương đã xác định: "Mặt trận văn hoá là một trong ba mặt trận (kinh tế, chính trị, văn hoá) ở đó người cộng sản phải hoạt động”.

Mặt khác, năm 1943 tình hình thời cuộc đang chuyển vào đêm trước của cuộc cách mạng xã hội. Đứng trước sứ mệnh lịch sử chuẩn bị cho một cuộc cách mạng sẽ diễn ra 2 năm sau đó, nhiều vấn đề trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng được đặt ra, đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam phải giải quyết.

Như vậy, về lý luận và thực tiễn đã hội đủ điều kiện cho sự ra đời của bản Đề cương văn hóa mới. Sự ra đời của Đề cương văn hóa Việt Nam vào năm 1943 là một tất yếu lịch sử. Mặc dù, do hạn chế của điều kiện xã hội lịch sử lúc bấy giờ, Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943 còn có những điểm chưa thật sự trọn vẹn. Thế nhưng, những tư tưởng cơ bản trong Đề cương đã được kiểm nghiệm trong thực tiễn 80 năm qua và được thực tiễn khẳng định.

Tư tưởng xuyên suốt trong Đề cương là ba nguyên tắc vận động của cuộc vận động văn hoá mới: “Dân tộc hóa”, “Đại chúng hóa”, “Khoa học hóa”.

“Dân tộc hoá” là nguyên tắc được đặt ở vị trí số 1 trong Đề cương. Nội dung của nguyên tắc này nhấn mạnh “chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa, khiến cho văn hoá Việt Nam phát triển độc lập”. Về phương diện chính trị, nguyên tắc này đã thôi thúc tầng lớp trí thức tham gia vào cuộc cách mạng xã hội trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa. Văn hóa được xem là một mặt trận có mối quan hệ khăng khít với chính trị và các mặt trận khác. Đúng như Hồ Chí Minh đã nói: "dân tộc bị áp bức thì văn nghệ cũng mất tự do. Văn nghệ muốn tự do thì phải tham gia cách mạng". Về phương diện khoa học, nguyên tắc này đã định hướng cho sự phát triển của văn hóa, xác định rõ tính chất của nền văn hóa mới.

Đề cương về văn hoá 1943 cùng với hoạt động của Hội Văn hoá cứu quốc, gần như tuyệt đại bộ phận đội ngũ trí thức khoa học và nghệ thuật của dân tộc đều hướng về cách mạng và tham gia cách mạng, góp phần tạo nên thắng lợi của cách mạng tháng Tám -1945. Thắng lợi của cuộc cách mạng vĩ đại đó cũng là thắng lợi của một nền văn hóa mới.

Đại chúng hoá là nguyên tắc ở vị trí số 2 trong Đề cương văn hóa Việt Nam 1943. Nội dung của nguyên tắc là “chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hoá phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng”. Nhiều nhà nghiên cứu đã nhận xét rằng, nguyên tắc này góp phần tiếp tục sứ mệnh lật sâu, đào sâu xuống các nền tảng của đại chúng, nhằm đưa văn hoá vào quần chúng, đưa quần chúng vươn dần lên, hướng tới các mục tiêu từ thấp lên cao của tiếp nhận và sáng tạo văn hoá. Chính nhờ vào các kết quả của Đại chúng hoá mà ngay sau năm 1945, nền văn học - nghệ thuật dân tộc đã tạo được một chuyển đổi nhanh chóng.

Khoa học hoá là nguyên tắc ở vị trí số 3 trong bản Đề cương văn hóa Việt Nam 1943. Ngày nay, không hiểu từ đâu, vị trí này đã bị thay đổi và gọi theo thói quen là "Dân tộc, Khoa học, Đại chúng". Tuy nhiên, sự thay đổi vị trí không đúng đó cũng có ý đề cao vai trò của tính khoa học. Nội dung của nguyên tắc này là “chống lại tất cả những cái gì làm cho văn hoá trái khoa học, phản tiến bộ”. Nguyên tắc này đặt ra yêu cầu phải vận dụng chủ nghĩa Mác để phân tích lịch sử văn hoá dân tộc và thực trạng văn hoá hiện thời. Từ đó đề ra phương hướng phát triển văn hoá "tân dân chủ". Nguyên tắc này trong tổng thể của 3 nguyên tắc đã trở thành công cụ cho nhận thức và hành động của các giới văn hoá mang tính cách mạng triệt để ở thời điểm tiền cách mạng.

Ba nguyên tắc Dân tộc hoá, Đại chúng hoá, Khoa học hoá được nêu trong Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943, không những chỉ đáp ứng kịp thời các nhu cầu cấp thiết nổi lên trong một thời điểm trọng đại của lịch sử, mà còn góp phần tạo cơ sở lý luận cho sự nghiệp xây dựng một nền văn hoá cách mạng Việt Nam trong 80 năm qua.

Ngày nay, xu thế hội nhập, hợp tác quốc tế đang đặt ra nhiều vấn đề về văn hóa. Đặc biệt, trong văn hóa giáo dục đã và đang xuất hiện những khuynh hướng có nguy cơ xa rời các nguyên tắc đã được xác định trong Đề cương văn hóa 1943. Nổi cộm nhất là khuynh hướng tư duy hướng ngoại một cách cực đoan trong quá trình đổi mới giáo dục.

Sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa theo mô hình cũ ở Liên Xô và các nước Đông Âu bị sụp đổ, trong tư duy của một số người đã có sự hoài nghi về mô hình giáo dục xã hội chủ nghĩa và chuyển hướng sang theo đuổi mô hình giáo dục của các nước phương Tây. Những năm gần đây, trong xu thế hội nhập quốc tế, toàn cầu hóa, nhất là từ sau khi Việt Nam gia nhập WTO, nhiều vấn đề mới về giáo dục đã và đang đặt ra. Một số nhà khoa học đã lên tiếng đề xuất các giải pháp khác nhau về cải cách giáo dục. Trong đó có những ý kiến đề nghị “dỡ ra làm lại từ đầu”, có ý kiến đề nghị “đổi mới tận gốc” nền giáo dục hiện nay. Lại có quan điểm cải cách giáo dục Việt Nam theo mô hình giáo dục của các quốc gia khác trên thế giới. Mặc dù, những quan điểm đó có thể có những yếu tố hợp lý nhất định, nhưng hệ quả của nó là đã tạo ra một làn sóng tư tưởng hướng ngoại, tác động mạnh mẽ đến quá trình đổi mới giáo dục ở Việt Nam. Cốt lõi của tư duy hướng ngoại trong đổi mới giáo dục là tìm kiếm những mô hình giáo dục của các quốc gia phát triển làm chuẩn để xây dựng nền giáo dục Việt Nam theo các mô hình đó. Trong thực tế, khó có thể tìm được một mô hình giáo dục chuẩn cho mọi quốc gia. Một mô hình giáo dục được gọi là chuẩn của quốc gia này nhưng lại không phù hợp với quốc gia khác, hoặc phù hợp về mặt này nhưng lại không phù hợp về mặt khác. Vì vậy, tư duy hướng ngoại trong đổi mới giáo dục ngày càng bộc lộ nhược điểm không thể khắc phục được. Điều đó, một lần nữa khẳng định rằng, đổi mới giáo dục hiện nay không thể xa rời các nguyên tắc đã được xác định trong Đề cương văn hóa 1943.

Theo nguyên tắc đó, đổi mới giáo dục hiện nay phải đặt tính dân tộc lên hàng đầu. Tuy nhiên, tính dân tộc ngày nay phải đặt trong mối quan hệ thời đại và có định hướng rõ ràng. Để làm được điều đó, cần phải chuyển tư duy hướng ngoại sang tư duy hướng nội trong quá trình đổi mới giáo dục. Nghĩa là, phải đổi mới trên cơ sở thực trạng giáo dục Việt Nam. Đổi mới phải dựa trên cơ sở triết lý giáo dục Việt Nam, phải phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử giáo dục Việt Nam, văn hoá Việt Nam, phù hợp với trình độ phát triển của con người và xã hội Việt Nam. Nền giáo dục Việt Nam phải tự mình xây dựng nên chuẩn giáo dục Việt Nam chứ không chạy theo các mô hình chuẩn từ bên ngoài. Mọi giá trị quốc tế, mọi thành tựu của khoa học giáo dục tiến bộ trên thế giới phải được chọn lọc, xử lý chuyển hoá phù hợp với chuẩn giá trị Việt Nam. Mục tiêu đổi mới giáo dục phải hướng tới xây dựng thành công nền giáo dục tiên tiến mang đậm bản sắc dân tộc, nền giáo dục xã hội chủ nghĩa hoàn toàn Việt Nam.

Xây dựng nền giáo dục xã hội chủ nghĩa hoàn toàn Việt Nam là một mục tiêu chiến lược đã được khẳng định xuyên suốt trong các thời kỳ lịch sử của cách mạng Việt Nam. Mặc dù mô hình chủ nghĩa xã hội cũ ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, mặc dù tình hình thế giới và trong nước có nhiều tác động vô cùng phức tạp đến sự phát triển của giáo dục, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn kiên quyết khẳng định: "Giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa trong nội dung, phương pháp giáo dục - đào tạo, trong các chính sách, nhất là chính sách công bằng xã hội. Phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của cơ chế thị trường đối với giáo dục - đào tạo. Chống khuynh hướng "thương mại hoá", đề phòng khuynh hướng phi chính trị hoá giáo dục - đào tạo. Không truyền bá tôn giáo trong trường học"[1, tr.29]. Đây là quan điểm định hướng chiến lược cho sự phát triển của nền giáo dục nước nhà trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Quan điểm đó đã chỉ ra mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung và tính chất tiên tiến của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới. Nền giáo dục xã hội chủ nghĩa phải hướng vào thực hiện mục tiêu xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện có lý tưởng xã hội chủ nghĩa, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phải đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực, khuynh hướng "thương mại hoá", đề phòng khuynh hướng phi chính trị hoá giáo dục - đào tạo, không truyền bá tôn giáo trong trường học.

Trước tình hình mới về thời cơ và thách thức, Nghị quyết số 29-NQ/TƯ, Hội nghị lần thứ Tám Ban chấp hành Trung ương Khóa XI đã xác định “Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hoá, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực” [2, tr.121].

Quá trình xây dựng nền giáo dục Việt Nam tiên tiến phải gắn với định hướng phát triển văn hóa theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hoá, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc” [3, tr.115].

Theo tinh thần đó, quá trình đổi mới giáo dục phải tiếp tục giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa của nền giáo dục trong tình hình mới. Đó là nền giáo dục tiên tiến, mang đậm bản sắc dân tộc, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Tính chất tiên tiến của nền giáo dục được thể hiện ở chính sách công bằng xã hội trong giáo dục - đào tạo. Tạo điều kiện để ai cũng được học hành. Người nghèo được Nhà nước và cộng đồng giúp đỡ để học tập. Bảo đảm điều kiện cho những người học giỏi phát triển tài năng.

Tiêu chí đầu tiên để đánh giá nền giáo dục tiên tiến đó là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa. Nền giáo dục tiên tiến nhất thiết phải đứng vững trên lập trường quan điểm của chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục. Trong bối cảnh hội nhập, toàn cầu hóa, nhiều học thuyết, nhiều khuynh hướng quan điểm khác nhau liên tục xuất hiện, nếu xa rời hoặc sao nhãng những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục là sẽ bị mất phương hướng. Một nền giáo dục được coi là tiên tiến, là chuẩn hoá không đơn giản chỉ ở mức độ hiện đại của nó mà quan trọng hơn là ở tính chất và gianh giới phát triển của nền giáo dục đó, không đi sau sự phát triển của xã hội, không chệch hướng vượt ra ngoài mục tiêu chính trị và điều kiện xã hội lịch sử cụ thể của quốc gia. Nền giáo dục tiên tiến là nền giáo dục có tốc độ phát triển tương thích với tốc độ phát triển của xã hội, có tác dụng đón trước sự phát triển, dẫn dắt từng bước cho sự phát triển của xã hội. Nghĩa là, nền giáo dục tiên tiến phải là nền giáo dục đảm bảo được tính lịch sử, tính giai cấp, tính khoa học, dân tộc và đại chúng.

Nền giáo dục tiên tiến phải được thể hiện trong mục tiêu và chính sách công bằng xã hội về giáo dục. Một trong những mục tiêu quan trọng của nền giáo dục tiên tiến là tạo ra sự bình đẳng về cơ hội học tập, ở đó ai cũng được học hành, ai cũng có cơ hội để phát triển hoàn toàn phẩm chất, năng lực của cá nhân đáp ứng yêu cầu của xã hội.

Nền giáo dục tiên tiến là nền giáo dục luôn cập nhật các xu hướng phát triển của lý luận và thực tiễn giáo dục thời đại, của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Trong xu thế hội nhập quốc tế, nền giáo dục tiên tiến phải chủ động nắm bắt được những thời cơ và vượt qua được những thử thách do quá trình hội nhập sinh ra, phải vươn lên ngang tầm khu vực và quốc tế, phải sánh vai cùng các cường quốc năm châu theo mong ước của Hồ Chí Minh. Trong bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nền giáo dục tiên tiến phải cập nhật thành tựu của khoa học và công nghệ hiện đại, thực hiện số hóa, xây dựng nhà trường thông minh, đi trước, đón đầu sự phát triển của xã hội.

Một trong những mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng của nền giáo dục tiên tiến là giữ vững và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Ngay trong ngày khai giảng năm học đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đã gửi thư cho học sinh, sinh viên các nhà trường trong toàn quốc tự hào công bố: “từ giờ phút này trở đi các em bắt đầu được nhận một nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam” [4, tr.32]. Đây vừa là lời tuyên ngôn cho sự ra đời của một nền giáo dục mới, vừa là một tư tưởng chiến lược định hướng cho sự phát triển của nền giáo dục cách mạng Việt Nam. "Một nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam", đó là nền giáo dục mà chúng ta đã thực hiện, đang thực hiện và sẽ còn phải tiếp tục thực hiện.

Như vậy, nền giáo dục tiên tiến, mang đậm bản sắc dân tộc là một nền giáo dục xã hội chủ nghĩa "hoàn toàn Việt Nam" trong tình hình mới. Thực chất đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục là tiếp tục thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng một nền giáo dục hoàn toàn Việt Nam trên cơ sở nguyên tắc “Dân tộc hóa”, “Đại chúng hóa”, “Khoa học hóa”.

Mặc dù 80 năm đã trôi qua, tình hình thế giới và trong nước đã có nhiều biến đổi, Đề cương văn hóa Việt Nam 1943 có những điểm không còn phù hợp với thực tiễn, nhưng ba nguyên tắc “Dân tộc hóa”, “Đại chúng hóa”, “Khoa học hóa” vẫn tiếp tục định hướng cho quá trình đổi mới giáo dục. Trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể, ba nguyên tắc đó đã được vận dụng trong lĩnh vực giáo dục với những tên gọi khác nhau cho phù hợp với thực tiễn. Nội hàm của các nguyên tắc đó cũng được vận động, phát triển cùng với sự vận động phát triển của thực tiễn lịch sử, của phương thức sản xuất, của trình độ dân trí và của xu thế thời đại. Tư tưởng đó đã trở thành cơ sở phương pháp luận định hướng cho sự phát triển lý luận và thực tiễn giáo dục Việt Nam trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội. Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hoá, tư tưởng về xây dựng nền giáo dục dân tộc, dân chủ nhân dân đã được Đảng ta phát triển mở rộng và vẫn tiếp tục soi sáng con đường hội nhập, hợp tác quốc tế của nền giáo dục Việt Nam trong tình hình mới.

Tài liệu tham khảo

1. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ hai BCHTƯ khoá VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Nghị quyết số 29-NQ/TƯ, Hội nghị lần thứ Tám Ban chấp hành Trung ương Khóa XI, Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, NXB. Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, NXB. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

4. Hồ Chí Minh 1945), Thư gửi học sinh, sinh viên nhân ngày khai trường, Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 4, NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002.

5. Trần Đình Tuấn (2012), Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, NXB. Quân đội nhân dân, Hà Nội.

 

 

 

PGS.TS. Trần Đình Tuấn - Viện Nghiên cứu hợp tác phát triển giáo dục

Ý kiến bạn đọc
Hòa trong không khí tưng bừng của cả nước chào mừng tri ân các nhà giáo, vừa qua THCS-THPT Newton long trọng tổ chức “Lễ kỷ niệm 40 năm ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11” nhằm tôn vinh những thầy giáo, cô giáo đang từng ngày từng giờ say sưa trên bục giảng để cống hiến to lớn cho sự nghiệp trồng người.
Khi nói về công lao của những thầy, cô giáo đối với sự nghiệp giáo dục miền núi Nghệ An, không thể không nói đến cố Nhà giáo Ưu tú Lô Xuân Minh – cố Hiệu trưởng Trường THSP Miền núi Nghệ An.
Hằng năm, cứ vào mùa khai trường, vào những ngày của tháng 11, trong tâm trí tôi lại sống dậy mạnh mẽ những kỉ niệm vui buồn, sâu sắc của một thuở đi dạy học nhiều gian nan vất vả, nhiều khó khăn và thương nhớ. Với tôi, tình cảm tôn sư trọng đạo, đạo lí tôn sư trọng đạo luôn luôn âm thầm, sâu lắng nhưng cũng hết sức mạnh mẽ và cao cả. Xin chia sẻ đôi điều về những ngày thương khó của một thuở đi dạy học như là sự tri ân đối với nghề nghiệp cao quý mà mình đã mang duyên nợ suốt cả cuộc đời. Và, cũng từ những ngày dạy học thương khó đó rút ra được những suy ngẫm sâu sắc về truyền thống tôn sư trọng đạo trong dòng chảy văn hóa Việt.                           
Ngày 03/11/ 2022 Hội Cựu Giáo chức tỉnh Lạng Sơn tổ chức Hội nghị biểu dương hội viên tiêu biểu và Kỷ niệm 40 năm Ngày Nhà giáo Việt Nam (20/11/1982 - 20/11/2022)
Ngày 01/11/2022 Hội Cựu Giáo chức Học viện Ngân Hàng tổ chức Đại hội lần thứ 2 nhiệm kỳ 2022 -2027tại hội trường lớn Học viện Ngân hàng. Dự Đại hội có 158/235 hội viên đã được triệu tập. Đại hội vinh dự được đón tiếp các đại biểu, khách mời đại diện cho Hội Cựu giáo chức Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Công đoàn Ngân hàng Việt Nam, Lãnh đạo Học viện Ngân Hàng.  
GCVN: Kì thi Học sinh giỏi các môn văn hóa và khoa học được tổ chức thường niên là một hoạt động chuyên môn quan trọng nhằm đánh giá chất lượng giáo dục mũi nhọn của các trường THCS.
Dạy học trực tuyến là phương thức dạy học từ xa với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin, người dạy và người học thực hiện các hoạt động tương tác với nhau thông qua màn hình ảo nhằm thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ dạy học theo chương trình, kế hoạch đã xác định. Cơ sở khoa học của dạy học trực tuyến là các luận điểm triết học duy vật biện chứng về quy luật nhận thức của người học và những thành tựu của Tâm lý học, Giáo dục học hiện đại. Dạy học trực tuyến là xu thế tất yếu của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, của quá trình chuyển đổi số trong lĩnh vực giáo dục.
Kính lễ với người thầy là truyền thống đạo lý tốt đẹp của người Việt ta. Từ xa xưa người Việt hầu như ai từng đi học cũng đều thuộc câu ca: “Muốn sang thì bắc cầu kiều / Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy”. Yêu kính thầy cô, quý trọng tri thức và vì thế vị trí của người thầy luôn được đặt rất cao trong nấc thang xã hội. Theo đà phát triển của xã hội, một số quan niệm không còn phù hợp trong xã hội hiện đại; trong đó liên quan đến môi trường giáo dục, người học có thêm nhiều phương thức, tự do hơn trong học tập. Vai trò, vị thế của người thầy và quan hệ giữa thầy cô với học sinh, với cha mẹ học sinh cũng có những thay đổi. Giáo dục không còn đơn thuần một chiều, thụ động.
Hệ thống giáo dục 4.0 áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến, trên 3 ứng dụng: Một là, sử dụng các thiết bị thông minh để hỗ trợ cho giáo dục và đào tạo. Hai là, tổ chức các khóa học trực tuyến thông qua mạng Internet. Ba là, ứng dụng sáng tạo mở, kết hợp người học và máy tính để thực hiện các nhiệm vụ học tập sáng tạo.
Sáng ngày 18/10/2022, chương trình Báo cáo Dự án “Văn học sáng tạo” mùa 2 của thầy và trò trường TH - THCS Pascal (Q. Bắc Từ Liêm, Hà Nội) đã diễn ra thành công tốt đẹp. Các bạn học sinh với diễn xuất ấn tượng đã mang tới buổi báo cáo những tiểu phẩm sân khấu hóa đặc sắc được lấy cảm hứng từ các bài thơ, trường ca của nhà thơ Trần Đăng Khoa  và tái hiện lại trên sân khấu. Bên cạnh đó, các bạn học sinh đã cùng tham gia hoạt động trải nghiệm trưng bày, trao đổi sách vô cùng thú vị và bổ ích.
Đam mê công nghệ thông tin thôi thúc Nguyễn Văn Hiệp xin nghỉ việc, dành toàn thời gian học lập trình online ở tuổi 25 và chuyển nghề sau ba tháng.
Sau 5 ngày làm việc khẩn trương, nghiêm túc, nhiệt tình, trách nhiệm và hiệu quả, sáng 11/10/2022, Học viện Báo chí và Tuyên truyền phối hợp với Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục, Đại học Vinh tổ chức Lễ Bế mạc đợt khảo sát chính thức đánh giá chất lượng giáo dục 04 chương trình đào tạo trình độ đại học các ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học, Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam, Xây dựng Đảng và Chính quyền Nhà nước, Kinh tế chính trị.
GD&TĐ - Hàng loạt giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục Tiểu học đã được ngành giáo dục Lào Cai đưa ra để các nhà trường triển khai, tháo gỡ.
GD&TĐ - Giờ dạy có sự hài hòa giữa lý thuyết, bài tập, thực hành để học sinh nắm vững nội dung cốt lõi nhưng không được cắt xén hay giảm tiết môn học.
Điện ảnh là ngành được xác định là tiên phong trong công nghiệp văn hóa ở Việt Nam. Làm sao để Điện ảnh phát triển, thực sự đem lại GDP, quảng bá văn hóa con người Việt Nam ra thế giới, chúng tôi đã có cuộc trò chuyện với ông Vi Kiến Thành- Cục trưởng Cục Điện ảnh để làm rõ hơn vấn đề này.
Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch Hàn Quốc mới đây cho biết nhạc hội văn hóa đầu tiên trong khuôn khổ triển lãm K Expo Vietnam 2022 đã diễn ra tại thủ đô Hà Nội, mở màn cho sự kiện giao lưu văn hóa giữa Hàn Quốc và Việt Nam.
Văn hóa giao thông có lẽ là thuật ngữ được nhiều người nhắc đến từ người tham gia giao thông cho đến các bạn học sinh khi còn ngồi ghế của nhà trường. Nhưng để hiểu văn hóa giao thông là gì? Và tham gia như thế nào để thể hiện sự văn hóa thì không phải ai cũng nắm rõ được. Hãy cùng Anycar tìm hiểu rõ vấn đề này qua bài viết này nhé!
(DNTO) - Trong giai đoạn hiện nay, rất nhiều doanh nghiệp vẫn chưa thành công trong chiến lược chuyển đổi số bởi rất nhiều nguyên nhân. Nhiều doanh nghiệp cho biết hiện tiến trình chuyển đổi số đang rất chậm do thiếu vốn, thiếu nguồn nhân lực và cả đơn vị cung cấp giải pháp.
(DNTO) - Tuần qua, bộ 3 cổ phiếu thép “đình đám” là CTCP Tập đoàn Hòa Phát HPG (+10,5%), Công ty Cổ phần Thép Nam Kim NKG (+14.9%), Công ty Cổ phần Tập đoàn Hoa Sen HSG (+19,9%), đều ghi nhận mức tăng khá ấn tượng.
GD&TĐ - Nếu nhiễm lại một tuýp virus dengue khác, bệnh nhân có thể bị nặng hơn, dễ trở thành sốt xuất huyết dengue hoặc sốc dengue.
GD&TĐ - Chào mừng 92 năm ngày phụ nữ Việt Nam, Công đoàn Formosa Hà Tĩnh tổ chức giải kéo co cho nữ công nhân với những trận đấu hấp dẫn, kịch tính.
Thay mặt Chính phủ, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Phạm Bình Minh vừa ký ban hành Nghị định số 83/2022/NĐ-CP ngày 18/10/2022 quy định về nghỉ hưu ở tuổi cao hơn đối với cán bộ, công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý.
GD&TĐ - Một siêu thị Điện Máy Xanh ở TP. Đà Nẵng đã bị mất 130 chiếc điện thoại trị giá hơn 1,2 tỷ đồng khi cho người dân vào tránh lụt đêm 14/10.
GD&TĐ - Đầu năm 2022, khoảng 75% trường học ở Mỹ yêu cầu học sinh, giáo viên đeo khẩu trang khi học trực tiếp, theo số liệu từ Trung tâm Thống kê Giáo dục quốc gia. Đến trước khi nghỉ hè, con số này giảm xuống 15%.
GD&TĐ - Trường ĐH Oxford, Anh, tiếp tục đứng đầu danh sách trường đại học thế giới năm 2023 của THE trong 7 năm liên tiếp.
GD&TĐ -Tại Hàn Quốc, chương trình giáo dục phổ thông không tổ chức dạy thể dục cho học sinh lớp 1 và lớp 2, những năm đầu tiểu học.
GD&TĐ - Nhiều gia đình khó khăn tại Indonesia buộc phải cho con nghỉ học do không đủ khả năng chi trả học phí.
GD&TĐ - Trung Quốc đang cần hàng triệu công nhân lành nghề để duy trì hoạt động của nền kinh tế như thợ sửa ô tô, chữa điện lạnh, kỹ thuật viên máy tính… Tuy nhiên, hệ thống giáo dục nghề nghiệp nước này đã rơi vào tình trạng hỗn loạn, khiến nền kinh tế của họ không đủ khả năng để thay thế hàng triệu người có tay nghề cao sắp nghỉ hưu trong bối cảnh dân số già và lực lượng lao động bị thu hẹp.
20 năm qua đã có rất nhiều ý kiến tâm huyết của cá nhân hoặc tập thể các nhà giáo dục, các nhà khoa học trong và ngoài nước đóng góp cho sự nghiệp GD-ĐT nước nhà. Có thể kể một số kiến nghị chính sau đây: Kiến nghị của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam cuối năm 1996(2), 2000(3), 2005(4); Kiến nghị của Đại tướng Võ Nguyên Giáp năm 2004-2006(5); Kiến nghị của 24 GS và nhà khoa học trong và ngoài nước do GS Hoàng Tụy chủ biên năm 2004(6); Đề án kiến nghị của nhóm trí thức người Việt ở nước ngoài do GS Vũ Quang Việt chủ biên năm 2005(7); Báo cáo “lựa chọn thành công” trong đó có một phần đánh giá về GD-ĐT của nhóm GS và chuyên gia thuộc trường Đại học Harvard trình trực tiếp thủ tướng cuối năm 2007(8); Kiến nghị của nhóm nghiên cứu đề tài khoa học cấp Nhà nước do bà Nguyễn Thị Bình làm chủ nhiệm 2008(9); Riêng mảng cơ cấu hệ thống giáo dục nói chung và hệ thống dạy nghề nói riêng có kiến nghị năm 2011(10) của Đặng Danh Ánh và một số kiến nghị của 30 nhà khoa học trong và ngoài nước đã được in thành sách năm 2007(11).
GD&TĐ -Từ năm học 2022 - 2023, Bộ Giáo dục Bờ Biển Ngà ban hành quy định học sinh có điểm trung bình năm học dưới 8,5 trên thang điểm 10 sẽ bị đuổi học.